Xăng E10 tương thích với hầu hết các loại xe, tính năng kỹ thuật tương đương xăng khoáng
Theo chuyên gia, sử dụng xăng E10 trên phương tiện ô tô, xe máy cho thấy tính năng kỹ thuật (công suất, tiêu hao nhiên liệu...) tương đương hoặc được cải thiện hơn so với xăng khoáng.
Các loại xe sản xuất từ 2013 đến nay tương thích với xăng E10
Sau thông tin Bộ Công Thương đang tham mưu để trình Chính phủ ban hành lộ trình sử dụng xăng E10 (chứa 10% ethanol), dự kiến từ ngày 1/1/2026, nhiều người dùng ôtô, xe máy tỏ ra lo lắng việc liệu xe của mình có thể sử dụng E10 hay không, nếu sử dụng thì ảnh hưởng của loại xăng này tới các chi tiết trên xe như thế nào.
Tại hội thảo quốc tế về "Phát triển nhiên liệu sinh học trong thời kỳ mới - những nhiệm vụ trọng tâm để kiến tạo tương lai nhiên liệu bền vững tại Việt Nam" sáng 27/8, PGS.TS Phạm Hữu Tuyến - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu các nguồn động lực và phương tiện tự hành (Đại học Bách khoa Hà Nội), cho biết, trung tâm đã thực hiện nghiên cứu phương tiện/động cơ, chế độ vận hành trên cùng loại xe ô tô, xe máy với xăng RON92, E10 RON92 và RON95, E10 RON95.

Xăng sinh hoc E10 có tính năng kỹ thuật tương đương xăng khoáng.
Kết quả, sử dụng xăng E10 trên phương tiện ô tô, xe máy cho thấy tính năng kỹ thuật (công suất, tiêu hao nhiên liệu...) tương đương hoặc được cải thiện hơn so với xăng khoáng; giảm được các thành phần độc hại CO và HC trong khí thải Ethanol (sử dụng để phối trộn E10) có nguồn gốc sinh học, có khả năng tái tạo và giảm phát thải CO2.
Khả năng tăng tốc của phương tiện cũng được cải thiện rõ rệt. Với cùng một mẫu xe thử nghiệm, khi sử dụng E10, thời gian tăng tốc từ 0-100 km/h chỉ mất 15,7 giây, trong khi dùng xăng khoáng là 19 giây. Điều này chứng minh E10 không chỉ thân thiện với môi trường mà còn đem lại trải nghiệm vận hành tốt hơn.
Theo vị chuyên gia này, khi tiến hành thử nghiệm bền bỉ trong điều kiện vận hành dài hạn, mức độ hao mòn động cơ khi sử dụng E10 tương đương xăng khoáng. Các chi tiết quan trọng như piston, xy-lanh, van đều không ghi nhận sự xuống cấp bất thường.
"Theo nghiên cứu, các xe đời mới (sản xuất từ năm 2013 trở lại đây) hoàn toàn tương thích với xăng E10. Tuy nhiên, một số phương tiện cũ sử dụng chế hòa khí hoặc có chi tiết bằng cao su, đồng trong hệ thống nhiên liệu có thể bị ảnh hưởng. Do đó, cần có hướng dẫn kỹ thuật và giải pháp hỗ trợ thay thế linh kiện cho nhóm phương tiện này", ông Tuyến nói và lưu ý, các nhà sản xuất/nhập khẩu ô tô, xe máy ở Việt Nam cần công bố danh sách các mẫu xe tương thích với xăng E10, có khuyến cáo trong trường hợp cần thiết.
TS Đào Duy Anh - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) cho biết xăng E5 RON92 đã được bán rộng rãi từ năm 2018. Tuy nhiên, thị phần liên tục giảm, đến năm 2024 chỉ còn 21%. Tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, lượng E5 tiêu thụ chỉ chiếm dưới 20% tổng lượng xăng bán ra.
Nguyên nhân chính, theo ông Anh, là do tâm lý người tiêu dùng còn dè dặt: nhiều người lo ngại chất lượng và độ tương thích của nhiên liệu sinh học với các phương tiện đời mới, xe máy và ô tô cao cấp.
Ngoài ra, mức chênh lệch giá giữa E5 RON92 và RON95 chỉ từ 400 - 800 đồng/lít, chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích người dân chuyển đổi. Các chính sách tài chính, ưu đãi thuế, hỗ trợ tín dụng cũng còn hạn chế. Đặc biệt, đến nay chưa có chiến dịch truyền thông quy mô lớn, dẫn đến nhiều hiểu lầm về an toàn và khả năng tương thích của E5, E10.
Xăng ethanol là một loại nhiên liệu chứa cồn ethanol (C2H5OH), loại cồn có trong các loại đồ uống như bia, rượu. Loại nhiên liệu này được ứng dụng cho các động cơ đốt trong, như là một chất phụ gia nhiên liệu sinh học cho xăng thông thường. Nhiên liệu xăng ethanol thường được đặt tên bằng ký hiệu "E" kèm theo con số biểu thị tỷ lệ phần trăm ethanol trong hỗn hợp theo thể tích, ví dụ E85 là hỗn hợp gồm 85% ethanol không chứa nước và 15% xăng.
Xăng E10 không ảnh hưởng đến độ bền động cơ
Các chuyên gia Việt Nam trong lĩnh vực cơ khí - động lực học đánh giá E10 phù hợp với các loại xe hiện hành trong nước. Bộ Khoa học và Công nghệ từng có các thử nghiệm kiểm định cho thấy xăng E5 và E10 không ảnh hưởng đến độ bền động cơ nếu tuân thủ đúng tiêu chuẩn chất lượng xăng sinh học đã được ban hành.
"Ban đầu một số người lái xe lo ngại sự cố động cơ là do E10, nhưng thực tế xuất phát từ nguyên nhân khác. Sau thời gian sử dụng không ghi nhận hỏng hóc nghiêm trọng nào, tâm lý e dè dần biến mất. Người dân Philippines giờ coi E10 như xăng thông thường, thậm chí quên rằng trong đó có ethanol", Bộ Công Thương nhận định. Cơ quan này tin rằng đây là tín hiệu tích cực cho Việt Nam vì có thể xóa bỏ sự hoài nghi từ mọi người bằng kinh nghiệm nhất quán và thông tin rõ ràng rằng E10 là an toàn.
Theo Bộ Công Thương, đội xe của Thái Lan không gặp vấn đề gì với E10 trong nhiều thập kỷ. Ngay cả những chiếc xe đời cũ hơn của Thái Lan (từ cuối những năm 90 đầu 2000) vẫn đang lưu thông trên đường cũng được thiết kế để sử dụng E10.
Các nhà sản xuất ôtô tại Thái Lan còn tích cực ủng hộ, vì chính sách này phù hợp định hướng năng lượng quốc gia, tạo thêm thị trường tiêu thụ ethanol nội địa. Họ đều đồng ý rằng E10 và E20 an toàn cho mọi loại xe hiện đại. Thông thường nắp đổ nhiên liệu trên ôtô Thái Lan có nhãn "xăng sinh học E10/E20 OK" hoặc tương tự. Nhiều ôtô ở Thái Lan có nhãn dán bên trong nắp nhiên liệu cho biết chấp nhận xăng pha etanol.
Theo Tổ chức Năng lượng tái tạo Mỹ (Renewable Fuels Association - RFA), xăng E10 đã được sử dụng tại Mỹ hơn 20 năm và được công nhận là an toàn với mọi loại động cơ ôtô, xe máy hiện đại. Khảo sát gần đây của Petrolimex cũng cho thấy hãng Toyota và Honda tại Việt Nam xác nhận xe do các hãng này sản xuất vận hành bình thường với E10.
Hiện nay, xăng E10 đã được cung cấp thí điểm tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng và bước đầu nhận được sự quan tâm từ người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đầu mối như Petrolimex, PVOIL, Sài Gòn Petro… đã sẵn sàng về hạ tầng phối trộn và phân phối, bảo đảm cung ứng đồng bộ từ ngày 1/1/2026.
Tuy nhiên, để thay thế hoàn toàn xăng khoáng, ngành nhiên liệu sinh học còn đối mặt nhiều thách thức: năng lực sản xuất trong nước mới đáp ứng khoảng 40% nhu cầu, phần còn lại phải nhập khẩu từ Mỹ, Brazil và các đối tác quốc tế. Điều này đòi hỏi mở rộng vùng nguyên liệu, nâng công suất ethanol, đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh và khả thi nhằm khuyến khích sản xuất, nhập khẩu, dự trữ chiến lược.