Xây dựng hệ sinh thái thông tin KH-CN cho phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số toàn cầu, kinh tế số đã trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng ở nhiều nước, gồm cả Việt Nam.

Báo cáo e-Conomy SEA năm 2024 cho thấy quy mô kinh tế số Việt Nam đã đạt mốc 36 tỉ USD, tăng 16% so với 2023, với thương mại điện tử chiếm khoảng 22 tỉ USD.

Đóng góp của các ngành vào kinh tế số trong năm 2024 - Ảnh: Báo cáo e-Conomy SEA 2024

Đóng góp của các ngành vào kinh tế số trong năm 2024 - Ảnh: Báo cáo e-Conomy SEA 2024

e-Conomy SEA 2024 là báo cáo thường niên theo dõi sự phát triển của nền kinh tế số tại khu vực Đông Nam Á, do Google và Temasek (quỹ đầu tư nhà nước Singapore) khởi xướng, có sự tham gia của công ty tư vấn quản lý toàn cầu Bain & Company với tư cách đối tác nghiên cứu chính. Báo cáo này cung cấp những phân tích sâu sắc về các xu hướng, tiềm năng và thách thức của nền kinh tế số, tập trung vào các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), bán dẫn và game, đồng thời nhấn mạnh các nhân tố quan trọng giúp khai phá tiềm năng của khu vực.

Các lĩnh vực thanh toán số, logistics và truyền thông trực tuyến cũng tăng trưởng mạnh, cho thấy tiềm năng ứng dụng công nghệ số vào sản xuất - kinh doanh. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam đã công bố một lộ trình phát triển kỹ thuật số tham vọng, với trọng tâm là AI và công nghệ bán dẫn. Điều này sẽ hỗ trợ nâng cao hiệu quả kinh tế và cải thiện các dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trong thời đại số hóa.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng một hệ sinh thái thông tin KH-CN hiệu quả (gồm cơ sở hạ tầng dữ liệu, cơ chế chia sẻ thông tin, nguồn nhân lực quản lý thông tin, các hệ thống số hóa và luật pháp) sẽ là nền tảng quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế số, đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Bộ KH-CN đã nhấn mạnh vai trò then chốt của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong quá trình phát triển đất nước. Việt Nam đang nỗ lực triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW của Trung ương ĐảngNghị quyết 71/NQ-CP của Chính phủ để trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nước.

Thực trạng hệ sinh thái thông tin KH-CN ở Việt Nam

Việt Nam đã và đang đầu tư xây dựng các thành phần của hệ sinh thái thông tin KH-CN. Về cơ sở hạ tầng dữ liệu, Cục Thông tin, Thống kê (thuộc Bộ KH-CN) đã hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu KH-CN với trên 64.000 bản ghi thông tin về nhiệm vụ KH-CN các cấp, 400.000 bản ghi toàn văn công bố KH-CN trong nước, gần 900 bản ghi thông tin về tổ chức nghiên cứu và phát triển trên cả nước.

Cục Thông tin, Thống kê cũng quản lý và vận hành hiệu quả Liên hợp Thư viện Việt Nam về nguồn tin KH-CN, tổ chức quy tụ hàng chục thư viện nghiên cứu và trung tâm thông tin khoa học trên cả nước.

Để phục vụ công tác quản lý nhà nước, hoạch định chính sách và xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức, Bộ KH-CN đã triển khai đề án xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện về tri thức Việt Nam trong lĩnh vực KH-CN. Hệ thống này hướng tới việc thu thập, tổ chức và quản lý thông tin chi tiết của các trí thức và chuyên gia, nhằm nhận diện, phân loại và đánh giá theo từng lĩnh vực chuyên môn.

Ngoài ra, nhiều nền tảng chia sẻ KH-CN cũng được xây dựng, như Cổng thông tin điện tử của Bộ KH-CN, các trang quản lý đề tài và bài báo khoa học, cũng dần được số hóa. Quyết định số 1285/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án "Phát triển nguồn tin KH-CN phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030"Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" đã được triển khai nhằm hoàn thiện hạ tầng và luật pháp cho hệ sinh thái thông tin.

Về luật pháp và chính sách, nhiều văn bản mới đã ra đời: Luật Công nghiệp Công nghệ số, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa… đã được Quốc hội thông qua nhằm tháo gỡ rào cản phát triển công nghệ, đồng thời Dự thảo Luật Chuyển đổi số (thay thế) đang được hoàn thiện.

Về tổng thể, Việt Nam đang xây dựng chiến lược về AI, với mục tiêu “phổ cập kiến thức và kỹ năng AI đến mọi tầng lớp nhân dân, không chỉ cán bộ, công chức mà cả người dân, doanh nghiệp”, góp phần nâng cao năng lực công nghệ của xã hội.

Về nguồn nhân lực và tổ chức, Hội Thông tin KH-CN Việt Nam (VASTI) chủ động tổ chức các hội thảo, tập huấn về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và công nghệ mới. Nhiều cơ quan quản lý chuyên trách về thống kê và truyền thông KH-CN cũng được củng cố.

Dù một số hãng công nghệ lớn đã bước đầu hợp tác với Bộ KH-CN (ví dụ Google và Bộ KH-CN đã cam kết thúc đẩy chuyển đổi số, AI và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo), nhiều doanh nghiệp Việt còn hạn chế trong khai thác thông tin KH-CN.

Việt Nam năm 2024 đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng của kinh tế số (vượt mức 20%/năm, cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP), nhưng khả năng đổi mới đột phá chưa tương xứng với tiềm năng KH-CN, một phần là do hệ thống thông tin KH-CN chưa hoàn thiện, thiếu liên kết, chia sẻ.

Như TS Trần Văn Tùng, Chủ tịch VASTI, nói với tạp chí Một Thế Giới: “Tôi cho rằng trở ngại lớn trong việc tiếp cận thông tin KH-CN hiện nay là hệ thống thông tin KH-CN trong nước vẫn còn phân tán và thiếu liên thông. Nhiều cơ sở dữ liệu được xây dựng bởi các bộ, ngành, viện nghiên cứu, trường đại học nhưng chưa có sự kết nối, khiến người dùng khó tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng và chính xác.

Một rào cản khác là năng lực khai thác thông tin của các tổ chức, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn hạn chế, nhất là thiếu đội ngũ chuyên trách xử lý thông tin. Thực ra tất cả thông tin chúng ta có đều là thông tin thô. Để biến những thông tin “ngổn ngang” thành hệ thống thì phải có nhân sự chuyên môn xử lý. Từ phấn hoa đến mật ong là một chặng đường dài, rất cần những chú ong cần mẫn.

Những yếu tố này làm giảm hiệu quả sử dụng thông tin KH-CN trong đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế - xã hội.

Ngoài ra, thực tế cuộc sống chuyển biến rất nhanh, nhiều mô hình mới ra đời, do đó các văn bản pháp lý cần được hoàn thiện đầy đủ để khuyến khích sự phát triển của thông tin. Song song đó, cũng cần có cơ chế hữu hiệu để để bảo vệ dữ liệu, bản quyền, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin.

Tựu trung, từ việc đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng hành lang pháp lý đến đào tạo nhân sự… đều cần được chú trọng. Tôi cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng trong vấn đề này”.

TS Trần Văn Tùng - Chủ tịch Hội Thông tin KH-CN Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ KH-CN

TS Trần Văn Tùng - Chủ tịch Hội Thông tin KH-CN Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ KH-CN

Thách thức và hạn chế

Trên cơ sở thực trạng nêu trên, có thể chỉ ra một số thách thức chính với hệ sinh thái thông tin KH-CN ở Việt Nam:

Tính phân tán và thiếu liên thông: Hệ thống thông tin KH&CN vẫn phân tán và thiếu liên thông giữa các cơ quan, đơn vị. Mỗi đầu mối (bộ, ngành, viện, trường) thường tự quản lý dữ liệu của mình, chưa có cầu nối kỹ thuật hiệu quả để kết hợp các nguồn tin. Điều này khiến cho người dùng (đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa) gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và khai thác thông tin một cách nhanh chóng, chính xác.

Năng lực và nhân lực hạn chế: Nhiều tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam chưa có đội ngũ chuyên trách xử lý thông tin KH-CN. TS Trần Văn Tùng cho biết đa phần thông tin KH-CN hiện có đều là thông tin thô và cần đến đội ngũ chuyên môn để biến thành tri thức hữu ích. Thiếu hụt nhân lực trong các lĩnh vực quản trị dữ liệu, AI hay thống kê KH-CN làm giảm hiệu quả sử dụng và phân tích lượng dữ liệu khổng lồ.

Khung pháp lý và chính sách chưa hoàn thiện: Dù nhiều luật chuyên ngành đã được ban hành, một số lĩnh vực phụ trợ thông tin KH-CN (hỗ trợ thu thập, xử lý, phân tích, lưu trữ, chia sẻ, khai thác và ứng dụng thông tin KH-CN để phục vụ nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế số) chưa được quy định rõ ràng.

Cơ chế khuyến khích chia sẻ dữ liệu, mở cơ sở dữ liệu khoa học chưa đầy đủ, còn tồn tại nhiều rào cản về quyền sở hữu trí tuệ, bảo mật thông tin nghiên cứu. Các văn bản pháp lý cần hoàn thiện thêm để bảo vệ dữ liệu, bản quyền và khuyến khích phát triển hệ sinh thái thông tin.

Ngoài ra, các chính sách về dữ liệu mở, phần mềm mã nguồn mở trong quản trị KH-CN ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm và cần có hành lang quy định rõ ràng.

Công nghệ và cơ sở hạ tầng: Dù Việt Nam có tỷ lệ người dùng internet cao và đang đẩy mạnh xây dựng thành phố thông minh, hạ tầng CNTT phục vụ lưu trữ và truyền tải thông tin KH-CN (ví dụ Trung tâm cữ liệu quốc gia) vẫn cần nâng cấp hơn nữa để đáp ứng khối lượng dữ liệu gia tăng nhanh. Ngoài ra, nhiều tổ chức vẫn chưa tận dụng hiệu quả công nghệ mới như AI hay điện toán đám mây trong xử lý thông tin. Trong khi đó, công nghệ mới cũng đặt ra yêu cầu mới - khối lượng dữ liệu lớn đòi hỏi nền tảng phân tích tiên tiến, đồng thời yêu cầu nâng cao khả năng an toàn thông tin.

Yếu tố con người và tổ chức: Nhận thức và thói quen làm việc xưa cũ cũng là rào cản. Nhiều cán bộ vẫn quen tự làm công việc của bản thân mà chưa coi trọng chia sẻ dữ liệu. Sự thiếu hợp tác giữa học viện – nhà nghiên cứu với doanh nghiệp, giữa các ngành, địa phương cũng hạn chế sự lan tỏa thông tin KH-CN tới doanh nghiệp và cộng đồng để áp dụng vào sản xuất – kinh doanh, quản trị và đời sống.

Vì thế, TS Trần Văn Tùng cho rằng các tổ chức, cá nhân, trong đó có nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan quản lý, doanh nghiệp… rất cần ngồi lại, trao đổi sâu sắc với nhau, để rõ hơn các góc nhìn, các cách tiếp cận vấn đề.

Định hướng và giải pháp

Để phát huy vai trò của thông tin KH-CN trong đổi mới sáng tạo và kinh tế số, chúng ta cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau:

Hoàn thiện khung chính sách, pháp luật: Cần tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, chia sẻ và bảo mật dữ liệu KH-CN gắn với mục tiêu phát triển kinh tế số, xã hội số. Cùng với đó, cần đẩy mạnh áp dụng cơ chế sandbox (khung thử nghiệm pháp lý linh hoạt có kiểm soát) như mô hình đang được chính phủ Việt Nam khuyến khích; xây dựng chế độ phần thưởng, công nhận với đóng góp của tổ chức và cá nhân chia sẻ dữ liệu KH-CN để tạo động lực tích cực.

Xây dựng cơ sở dữ liệu mở, liên thông: Đẩy mạnh hiện đại hóa hạ tầng thông tin và tích hợp hệ thống. Cục Thông tin, Thống kê sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp với các bộ, ngành để tạo ra các nền tảng cơ sở dữ liệu mở, tích hợp AI trong khai thác và dự báo KH-CN.

Việc xây dựng mục lục tích hợp (OPAC) cho Liên hợp Thư viện được cho là ưu tiên, nhằm giúp người dùng truy vấn đồng thời tất cả tài liệu nghiên cứu, luận án, báo cáo khoa học của các thư viện thành viên. Phổ biến và đưa vào sử dụng rộng rãi V-Compas tại các đơn vị thành viên Liên hợp Thư viện và kêu gọi sự tham gia đóng góp của các đơn vị vào nền tảng này, đồng thời nên tập trung thực hiện đề án Xây dựng cổng truy cập mở có giá trị, đưa vào nhiệm vụ ưu tiên cần thực hiện.

Việc xây dựng mục lục tích hợp (OPAC) cho Liên hợp Thư viện là ưu tiên, nhằm giúp người dễ dàng tra cứu các luận án, báo cáo và tài liệu nghiên cứu của những thư viện thành viên. Nếu nền tảng như V-Compas được kết nối và mở rộng phạm vi sử dụng toàn quốc thì sẽ giúp chia sẻ dữ liệu và kết quả nghiên cứu rộng rãi hơn, qua đó thúc đẩy tinh thần khoa học mở, hợp tác và đổi mới sáng tạo.

V-Compas là phiên bản tiếng Việt của hệ thống COMPAS, công cụ phân tích năng lực cạnh tranh công nghệ do Viện Thông tin Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KISTI) phát triển từ năm 2013. Sau đó, V-Compas được chuyển giao cho Việt Nam để phục vụ cộng đồng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại nước ta.

Ứng dụng AI và công nghệ mới: Ngoài AI (có thể giúp tăng tốc xử lý, phân tích lượng thông tin khổng lồ và hỗ trợ con người ra quyết định), cần ưu tiên phát triển các công cụ truy vấn thông minh (gợi ý tự động) trong thư viện số và cơ sở dữ liệu khoa học.

Áp dụng công nghệ mới sẽ giúp rút ngắn thời gian xử lý thông tin rất nhiều, chẳng hạn trong việc Bộ KH-CN xây dựng luật như TS Trần Văn Tùng cho biết: “Trong hơn 1 năm qua, Bộ KH-CN xây dựng, trình Quốc hội thông qua 5 luật. Đây là tốc độ nhanh chưa từng có. Trước đây, muốn làm luật thì khâu lấy ý kiến, đánh giá tác động cũng mất cả năm trời, thường 2 - 3 năm mới xong một luật. Song hiện nay, với sự trợ giúp của công nghệ, việc xây dựng chính sách cũng được rút ngắn. Từ nay đến cuối năm, Bộ KH-CN có thể xây dựng thêm tới 4 luật, tốc độ rất đáng kinh ngạc”.

Trong chiến lược, nên tích hợp AI vào các nền tảng thông tin, tạo cơ sở dữ liệu dự báo KH-CN theo hướng tự động phân tích xu hướng. Không những thế, các đề án phát triển nội địa nền tảng AI, thúc đẩy hợp tác với Google, Microsoft… về công nghệ này cần được đẩy mạnh.

Tăng cường hợp tác và liên kết tổ chức: Hệ sinh thái thông tin KH-CN cần có sự tham gia của nhiều chủ thể - nhà quản lý, viện nghiên cứu, trường học, thư viện, doanh nghiệp. VASTI cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có thể làm cầu nối liên ngành. Trong đó, TS Trần Văn Tùng cho biết: “Bên cạnh việc hướng tới việc xây dựng một hệ sinh thái thông tin KH-CN đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong thời kỳ mới, VASTI sẽ đồng hành cũng các trường đại học, bộ ngành, địa phương để tổ chức những hội thảo, tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, công nghệ mới… cho các doanh nghiệp, cá nhân”.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong chia sẻ thông tin (ví dụ tham gia Hiệp ước dữ liệu mở) và thu hút đầu tư nước ngoài vào hạ tầng dữ liệu (băng thông, máy chủ…) nhằm bổ trợ nguồn lực.

Hiệp ước dữ liệu mở là thuật ngữ chỉ các cam kết, thỏa thuận và nguyên tắc hướng dẫn việc chia sẻ dữ liệu một cách công khai, tự do cho cộng đồng sử dụng và tái sử dụng.

Đào tạo và nâng cao năng lực nguồn nhân lực: Công tác phát triển nhân lực chất lượng cao về thông tin KH-CN cần được chú trọng. Ngoài đào tạo chuyên gia quản trị thông tin, thống kê khoa học, cần có chương trình bồi dưỡng kỹ năng sử dụng công cụ số, khai thác dữ liệu lớn cho cán bộ viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Có thể phối hợp với các tập đoàn công nghệ tổ chức khóa huấn luyện AI, dữ liệu lớn cho người làm khoa học và quản lý, giống cách Google đã triển khai nhiều chương trình đào tạo AI cơ bản cho doanh nghiệp, người dân Việt Nam và có kế hoạch tăng cường hỗ trợ học bổng, chương trình trao đổi dành cho nhà khoa học nước ta. Song song đó, cần lan tỏa văn hóa sử dụng thông tin KH-CN trong doanh nghiệp qua việc áp dụng các tiêu chí đánh giá đổi mới sáng tạo, khuyến khích các công ty công bố kết quả nghiên cứu, nhờ đó làm giàu thêm nguồn thông tin chung.

Đẩy mạnh chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ công: Các dịch vụ hành chính công về KH-CN nghệ (đăng ký sáng chế, cấp phép thử nghiệm, tài trợ nghiên cứu…) cần được số hóa đầy đủ. Thực hiện chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ hành chính công trên Cổng Dịch vụ công quốc gia để nâng cao tính minh bạch, hiệu quả phục vụ.

Bên cạnh đó, cần phát triển các ứng dụng di động, chatbot cho cộng đồng để lan tỏa kiến thức KH-CN một cách rộng rãi (ví dụ hệ thống tra cứu động hồ sơ nghiên cứu, hệ thống hỏi-đáp tự động về thông tin KH-CN).

Truyền thông, nâng cao nhận thức: Xây dựng cộng đồng thông tin KH-CN chỉ thành công khi các bên hiểu rõ tầm quan trọng của nó. Cần tăng cường tuyên truyền về vai trò của hệ thống thông tin KH-CN, ví dụ qua các diễn đàn, hội thảo chuyên đề, ngày hội…

Việc phổ biến thành tựu ứng dụng KH-CN thực tiễn cũng giúp khẳng định giá trị của thông tin nghiên cứu. Các tổ chức chuyên ngành có thể biên soạn bản tin, sách điện tử tổng hợp thành tựu KH-CN Việt Nam, giống Cục Thông tin, Thống kê từng làm qua Triển lãm Sách KH-CN: Khám phá tri thức - Kiến tạo tương lai để phổ biến kiến thức.

Trao tặng sách KH&CN là hoạt động ý nghĩa - Ảnh: VGP

Trao tặng sách KH&CN là hoạt động ý nghĩa - Ảnh: VGP

Kết luận

Hệ sinh thái thông tin KH-CN có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và kinh tế số. Dữ liệu và tri thức KH-CN là “mạch máu” nuôi dưỡng chuỗi giá trị công nghệ, từ nghiên cứu ban đầu đến sản phẩm thương mại hóa. Việc xây dựng một hệ sinh thái thông tin KH-CN hiệu quả, gồm cơ sở dữ liệu mở, liên thông, ứng dụng AI, và nguồn nhân lực chất lượng cao, chính là chìa khóa để Việt Nam khai thác tối đa tiềm năng KH-CN phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.

Quá trình này cần sự tham gia tích cực của các cơ quan chính phủ, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Định hướng chiến lược của chính phủ về phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đặt nền móng cho những nỗ lực trên.

Thực hiện tốt các giải pháp đó sẽ giúp xây dựng một hệ sinh thái thông tin KH-CN chất lượng cao, từ đó hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho sự nghiệp đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

Sơn Vân

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/xay-dung-he-sinh-thai-thong-tin-kh-cn-cho-phat-trien-kinh-te-so-o-viet-nam-236646.html