Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán phù hợp với nền kinh tế và tiệm cận IFRS

Một vấn đề quan trọng khi cho phép áp dụng nguyên mẫu chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ở Việt Nam là bài toán cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế và hướng dẫn để sẵn sàng giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình chuyển đổi.

Việc thể chế áp dụng IFRS là một cú hích cho ngành kế toán vươn lên trên bản đồ thế giới và tạo thế sẵn sàng để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu rộng vào sân chơi quốc tế.

Việc thể chế áp dụng IFRS là một cú hích cho ngành kế toán vươn lên trên bản đồ thế giới và tạo thế sẵn sàng để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu rộng vào sân chơi quốc tế.

Trong bối cảnh hiện nay, những yêu cầu áp dụng IFRS cùng làn sóng chuyển đổi số đã làm thay đổi căn bản công tác quản lý kế toán. Nhìn lại thực tiễn trong nước, chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) ra đời cách đây hơn 20 năm và các hướng dẫn của Thông tư số 200/2014/TT-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp (Thông tư 200) đã bộc lộ những điểm chưa theo kịp với tình hình hoạt động hiện tại của doanh nghiệp.

Trong nỗ lực đưa ra những đột phá về thể chế của Việt Nam gần đây, để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, Bộ Tài chính đã đưa ra nhiều cải cách, sửa đổi liên quan đến Luật kế toán, Thông tư thay thế Thông tư 200, Thông tư về thể thức áp dụng IFRS cũng như lộ trình xây dựng chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam (VFRS).

Những thay đổi này được đánh giá sẽ ảnh hưởng sâu rộng tới nền kinh tế, tác động trực tiếp tới cộng đồng doanh nghiệp, bao gồm các công ty niêm yết, đại chúng cho đến hàng trăm nghìn doanh nghiệp. Các yêu cầu mới cũng tác động đến người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) là nhà đầu tư, tổ chức tín dụng, nhà cung cấp, người lao động và các cơ quan quản lý nhà nước như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng khoán, Cục Thuế, Cục Thống kê…

Ông Phạm Nam Phong - Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Kiểm toán & Đảm bảo, Deloitte Việt Nam.

Ông Phạm Nam Phong - Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Kiểm toán & Đảm bảo, Deloitte Việt Nam.

Phương pháp tiếp cận đối với Việt Nam

IFRS là một bộ chuẩn mực phổ quát, mang tính nguyên tắc cho hầu hết các vấn đề kế toán cốt lõi để lập BCTC cho các loại hình doanh nghiệp, áp dụng cho nhiều quốc gia. Đây cũng là hình mẫu để các nước học hỏi, sửa đổi hệ thống kế toán quốc gia của riêng mình.

Phương pháp tiếp cận của Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) là một trong những kinh nghiệm quốc tế hữu ích được nhiều quốc gia tham khảo khi IASB thực hiện chuyển đổi từ một bộ chuẩn mực nguyên mẫu IFRS sang một bộ chuẩn mực khác đơn giản hơn. Tuy nhiên, IASB vẫn cố gắng duy trì các nguyên tắc cốt lõi để có thể áp dụng cho một nhóm đối tượng khác như nhóm vừa và nhỏ (SME). IASB có hai nguyên tắc căn bản – nguyên tắc phù hợp (Alignment approach) và nguyên tắc đơn giản hóa (Simplification approach).

Thử ứng dụng phương pháp này với Việt Nam, phương pháp tiếp cận để thực hiện thay thế Thông tư 200 trước mắt và có thể sau này là Hệ thống 26 chuẩn mực kế toán Việt, có thể triển khai theo mô hình sau:

Mô hình đánh giá để quyết định hành động.

Mô hình đánh giá để quyết định hành động.

Bước 1, bắt đầu từ một bộ nguyên mẫu IFRS. Bước 2, đưa quy định nguyên mẫu đó qua “bộ lọc” về mức độ liên quan, hữu ích và khả thi đối với bối cảnh của Việt Nam, xét trên khía cạnh chi phí, lợi ích và nhu cầu của người sử dụng báo cáo tài chính. Bước 3, thu thập đánh giá để có những quyết định phù hợp.

Trong trường hợp không liên quan, quy định đó nên được loại bỏ hoàn toàn, ví dụ: các quy định kế toán liên quan đến Quỹ hưu trí hay BCTC trong nền kinh tế siêu lạm phát.

Trong trường hợp đánh giá là liên quan, có ba hướng xử lý: Giữ lại gần như nguyên vẹn (các quy định liên quan tới hàng tồn kho); Tạm hoãn nếu hiện tại chưa phải là thời điểm phù hợp (các quy định liên quan đến công cụ tài chính - IFRS9, thuê - IFRS 16, hợp đồng bảo hiểm - IFRS 17); Giữ lại quy định của IFRS nhưng đơn giản hóa do việc thực hiện sẽ phức tạp và tốn kém. Trường hợp đơn giản hóa, thường là trường hợp phổ biến nhất, cần cơ quan chuyên môn nghiên cứu để đơn giản hóa việc ghi nhận (ví dụ các quy định liên quan đến ghi nhận doanh thu).

Với phương pháp tiếp cận này, về cơ bản sẽ xác định được danh sách tổng thể các quy định cần phải được sửa đổi, thay thế hoặc bổ sung trong Thông tư dự kiến thay thế Thông tư 200 sắp tới và VFRS sau này. Ngoài ra, IFRS được soạn thảo và ban hành qua một quy trình chặt chẽ, với nội dung có tính quy phạm cao và kết cấu liên hệ chặt chẽ với nhau về nội hàm và phạm vi.

Vì vậy, việc truyền tải các nội dung cốt lõi của IFRS vào quy định cụ thể, ngắn gọn chỉ trong một thông tư mà vẫn đảm bảo các yêu cầu về mức độ dễ hiểu, dễ áp dụng, đồng bộ và nhất quán sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực lớn của cơ quan chuyên môn khi thực hiện quá trình chuyển đổi này.

Cộng đồng doanh nghiệp và người làm công tác kế toán cũng cần đẩy nhanh việc tiếp cận các vấn đề kế toán trực tiếp liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp từ lăng kính của chuẩn mực IFRS để chủ động, sẵn sàng cho các thay đổi sắp tới của chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam.

Lộ trình khoa học và gắn với sự phát triển chung của nền kinh tế

Các doanh nghiệp hoàn toàn được phép áp dụng chuẩn mực IFRS khi đủ điều kiện. BCTC được lập đầy đủ theo IFRS là bộ báo cáo pháp lý phải nộp cho mục tiêu luật đinh tại quốc gia đó. Ví dụ, tại các quốc gia châu Âu, các nhà lập pháp sẽ luật hóa các chuẩn mực kế toán quốc tế ban hành bởi IASB và bắt buộc/cho phép các doanh nghiệp niêm yết tại châu Âu phải tuân thủ và công bố với người sử dụng BCTC.

Tại Việt Nam, cơ quan chuyên môn dự kiến sẽ ban hành Thông tư quy định về thể chế áp dụng Chuẩn mực IFRS trong năm 2025, đánh dấu một đột phá thể chế trong lĩnh vực kế toán của Việt Nam mà cộng đồng doanh nghiệp và các bên có liên quan chờ đợi từ lâu. Đây sẽ là một cú hích cho ngành kế toán vươn lên trên bản đồ thế giới và tạo thế sẵn sàng để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu rộng vào sân chơi quốc tế.

Kinh nghiệm thực tế cho thấy, phần nhiều các quốc gia cho phép áp dụng IFRS với một số đối tượng đáp ứng các tiêu chí nhất định, không “mở” hoàn toàn cho hầu hết các doanh nghiệp bởi vì ưu tiên của các quốc gia là chất lượng hơn số lượng.

Việc tất cả doanh nghiệp áp dụng IFRS, bao gồm cả các doanh nghiệp chưa đủ nguồn lực và kinh nghiệm có thể dẫn tới rủi ro các BCTC này chỉ mang danh nghĩa, định dạng theo IFRS nhưng không thực sự thay đổi bản chất ghi nhận và đo lường theo đúng chuẩn mực; kéo theo nhiều hệ lụy từ phạm vi doanh nghiệp tới tầm vĩ mô về thị trường vốn và sự phát triển kinh tế.

Những báo cáo này có rủi ro chứa đựng những sai sót trọng yếu do việc áp dụng không đúng với chuẩn mực IFRS, vốn mang bản chất dựa trên nguyên tắc thay vì các quy định cụ thể, đòi hỏi nhiều xét đoán và nhiều khi là sự tham gia sâu rộng của các chuyên gia. Điều này tạo nên khoảng cách giữa yêu cầu phức tạp của chuẩn mực và năng lực thực thi của doanh nghiệp cũng như hệ sinh thái có liên quan trong nền kinh tế. Hệ lụy kéo theo là thị trường có rủi ro tràn ngập các thông tin tài chính không đáng tin cậy và không so sánh được, hay còn gọi là "thị trường của những quả chanh" (lemons market).

Tại thị trường đó, người sử dụng báo cáo cũng như cơ quan quản lý sẽ không dễ dàng phân biệt được một báo cáo IFRS có chất lượng cao và một báo cáo kém chất lượng. Khi đối mặt với tình trạng bất cân xứng thông tin này, người sử dụng báo cáo, trong đó có các nhà đầu tư, có xu hướng định giá tất cả các cơ hội đầu tư hay chất lượng báo cáo ở mức thấp, được ví như những "quả chanh" - hàng kém chất lượng.

Điều này sẽ gây thiệt hại cho cả những doanh nghiệp đã nỗ lực và đầu tư đúng đắn, làm giảm giá trị của việc áp dụng IFRS chất lượng cao. Ở tầm vĩ mô, thực trạng này có thể làm tổn hại đến uy tín chung của thị trường vốn Việt Nam và làm mất đi mục tiêu cốt lõi của việc áp dụng IFRS – tăng cường lòng tin của nhà đầu tư. Kinh nghiệm thực tế trong việc triển khai áp dụng IFRS ở các quốc gia mới nổi trên thế giới cũng đã minh chứng hệ lụy này khi năng lực triển khai, cơ chế đảm bảo tuân thủ và giám sát chưa sẵn sàng cho một khối lượng quá lớn doanh nghiệp áp dụng.

Các doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận nắm bắt chuẩn mực IFRS, đánh giá sự khác biệt, tập trung vào vấn đề của chính doanh nghiệp mình, song song với việc đánh giá tác động đến hệ thống thông tin, chính sách, quy trình và nhân sự.

Tại Việt Nam, đối tượng được phép áp dụng IFRS theo lộ trình tại Quyết định số 345/QĐ-BTC ngày 16/3/2020 của Bộ Tài chính nên tiếp tục được cân nhắc và bổ sung, trong đó, bao gồm công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn, doanh nghiệp nhà nước có các khoản vay được tài trợ bởi định chế tài chính quốc tế, các doanh nghiệp tiêu biểu dẫn dắt ngành kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động trong Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam và có thể gắn thêm với một tiêu chí quy mô nhất định (doanh thu, giá trị vốn hóa).

Việc duy trì sự chọn lọc trong giai đoạn chuyển đổi này có thể là sự định hướng chính sách có chủ đích, giúp bảo vệ tính toàn vẹn của thị trường và tạo ra nhóm tiên phong có chất lượng cao, đóng vai trò hình mẫu uy tín cho nền kinh tế. Việc mở rộng đối tượng áp dụng có thể cân nhắc khi mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp được nâng cao và Việt Nam có cơ chế đảm bảo tuân thủ và giám sát hiệu quả.

Một vấn đề quan trọng khi cho phép áp dụng nguyên mẫu IFRS ở Việt Nam là bài toán cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế và hướng dẫn để sẵn sàng giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình chuyển đổi. Cụ thể như: các khác biệt của IFRS và quy định của thuế; cơ chế giải quyết các khác biệt trong cách hiểu, cách dịch ngôn ngữ và vận dụng IFRS; quyền tài phán, cơ chế giải quyết các tranh chấp nếu có khi sử dụng báo cáo nguyên mẫu IFRS.

Mặc dù Việt Nam cho phép doanh nghiệp áp dụng nguyên mẫu IFRS, nhưng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia VAS/VFRS mới là trụ cột cốt lõi cho hệ thống thông tin kế toán, tài chính của quốc gia, thuộc chủ quyền và quyền tự quyết của Việt Nam. Công việc chính yếu của Việt Nam là xây dựng và phát triển hệ thống này để phù hợp nhất với trình độ phát triển của mình và tiệm cận nhất với IFRS.

Phạm Nam Phong - Phó Tổng Giám đốc Deloitte Việt Nam

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/xay-dung-he-thong-chuan-muc-ke-toan-phu-hop-voi-nen-kinh-te-va-tiem-can-ifrs-42560.html