Xu hướng tăng lãi suất đang chiếm ưu thế

Áp lực tỷ giá kéo dài cùng với lượng dự trữ ngoại hối đang ở mức thấp của Ngân hàng Nhà nước cho thấy xu hướng tăng lãi suất mới đang là bên chiếm ưu thế.

Tuần qua, thị trường tài chính toàn cầu đã có những phản ứng tích cực trước bài phát biểu của ông Chủ tịch Fed. Nhiều người cho rằng đây là một tín hiệu cho thấy cơ quan này đang có chủ trương hạ lãi suất vào tháng 9 tới đây. Lãi suất là một biến số vô cùng quan trọng. Ở Việt Nam, để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm nay, Ngân hàng Nhà nước đang có xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua việc tăng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng và kiểm soát mặt bằng lãi suất.

Tuy nhiên, trong một cuộc hội thảo được tổ chức vào cuối tuần qua, ông Lê Hồng Khang, Giám đốc Phân tích của công ty xếp hạng tín nhiệm FiinRatings đưa ra một góc nhìn trái ngược. Ông cho rằng, dư địa để có thể giảm lãi suất ở Việt Nam hiện đang khá hạn chế. Lãi suất là một biến số của thị trường và nhà nước cũng chỉ có thể can thiệp được một phần nào đó. Ông Khang cho rằng, áp lực tỷ giá kéo dài cùng với lượng dự trữ ngoại hối đang ở mức thấp của Ngân hàng Nhà nước cho thấy xu hướng tăng lãi suất mới đang là bên chiếm ưu thế.

Để chứng minh cho nhận định của mình, ông Khang đã đưa ra những dữ liệu rất đáng chú ý, được tính toán dựa trên hơn 1.000 doanh nghiệp phi tài chính. Dữ liệu cho thấy, mức chi phí lãi vay của các doanh nghiệp trên tổng mức lợi nhuận EBITDA của họ đang có xu hướng tăng dần, đặc biệt là từ năm 2021 đến nay. Cụ thể, vào năm 2021, mỗi 100 đồng lợi nhuận EBITDA các doanh nghiệp tạo ra, họ phải chi 17 đồng để trả lãi vay. Đến năm 2024, con số này đã tăng lên tới 24 đồng.

EBITDA là một chỉ số lợi nhuận trước khi trừ đi các chi phí về lãi vay, thuế và khấu hao. Việc tỷ lệ lãi vay trên EBITDA ngày càng tăng cho thấy gánh nặng lãi suất mà các doanh nghiệp đang phải chịu có xu hướng ngày càng nặng nề hơn.

Đáng chú ý, tỷ lệ này lại tăng lên trong bối cảnh cơ cấu nợ vay của các doanh nghiệp cũng đang ngày càng nghiêng về phía ngắn hạn. Tức là, các doanh nghiệp đang ngày càng phải vay ngắn hạn nhiều hơn. Ví dụ, vào năm 2021, cứ 100 đồng nợ vay của các doanh nghiệp, có 52 đồng là vay ngắn hạn. Đến năm 2024, con số này đã là 60 đồng. Ap lực trả nợ của các khoản vay ngắn hạn là rất khác biệt so với các khoản vay dài hạn.

Một điều đáng lo ngại hơn là dòng vốn đầu tư, tức là tiền dùng để mua sắm máy móc, xây dựng nhà xưởng đang có xu hướng được tài trợ bằng các khoản vay ngắn hạn nhiều hơn. Về nguyên tắc, các khoản đầu tư dài hạn như vậy nên được tài trợ bằng nguồn vốn vay dài hạn với một mức lãi suất ổn định. Việc "lấy ngắn nuôi dài" như hiện nay đang đặt các doanh nghiệp vào một tình thế rủi ro hơn.

Để giảm mặt bằng lãi suất một cách bền vững, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất, điều tiên quyết là phải tạo điều kiện để họ có thể thu xếp được các nguồn vốn dài hạn, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn như hiện trạng bây giờ.

Thực tế, đây là một bài toán của chính các doanh nghiệp nhiều hơn là của cơ quan quản lý. Vay vốn dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu là một trong những cách hiệu quả nhất. Các diễn giả tại buổi hội thảo tuần trước có nói vui rằng, mỗi doanh nghiệp hãy tự biến mình thành một “con nợ chuyên nghiệp".

"Chuyên nghiệp" có nghĩa là họ phải có một chiến lược vay vốn bài bản, công bố thông tin một cách minh bạch, chủ động đi xếp hạng tín nhiệm và chứng minh được dòng tiền vững mạnh của mình... để có thể làm cho các chủ nợ tin tưởng.

Rất nhiều các định chế tài chính khác như các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, đang có một lượng tiền rất lớn và họ cũng đang muốn "rót tiền" vào những nơi có thể mang lại một khoản lãi suất đều đặn, không cần phải quá cao. Các doanh nghiệp cần phải có một chiến lược bài bản để có thể tiếp cận được với nhu cầu "tiêu tiền" đó.

Minh Thư

Nguồn Hà Nội TV: https://hanoionline.vn/xu-huong-tang-lai-suat-dang-chiem-uu-the-354844.htm