Ý chí, bản lĩnh và khát vọng độc lập dân tộcBài 1: Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công có ý nghĩa trọng đại trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam; từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam trở thành một nước độc lập do Nhân dân lao động làm chủ; thắng lợi to lớn đó trước hết là nhờ đường lối, chiến lược cách mạng sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu

Tháng 9/1939, nước Pháp tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, giải tán Đảng Cộng sản Pháp và các tổ chức dân chủ, tiến bộ trong nước và ở các nước thuộc địa; tại Đông Dương, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Sau khi Pháp ký hiệp ước đầu hàng phát xít Đức - Ý, chính phủ phản động làm tay sai phát xít ở Pháp thành lập. Tháng 9/1940, Nhật chính thức xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp và phát xít Nhật tăng cường áp bức, bóc lột người dân Việt Nam.

Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và Đông Dương, Đảng Cộng sản đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và phương thức hoạt động. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, tháng 11/1939 nêu rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”. Mục tiêu đề ra là phải đánh đổ thực dân Pháp - phát xít Nhật và tay sai, giải phóng Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.

Trong tình hình mới, hình thức đấu tranh thay đổi; nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà cho biết, khẩu hiệu cách mạng ruộng đất tạm thời được gác lại, chỉ tịch thu ruộng đất của phong kiến và địa chủ phản động, thành lập Chính phủ cộng hòa dân chủ thay thế cho chính quyền Xô Viết công nông binh... Chủ trương chiến lược này tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7, tháng 11/1940 và lần thứ 8, tháng 5/1941.

Phân tích về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 chỉ rõ: “Nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được... Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc. Vậy thì quyền lợi của nông dân và thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng độc lập của toàn thể nhân dân...”. Để thực hiện nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật, Đảng cũng đề ra các khẩu hiệu đấu tranh như giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới mục tiêu người cày có ruộng...

Ngày 9/12/1961, về thăm quê nhà lần thứ hai, Bác Hồ chụp ảnh với chiến sĩ phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh 1930 - 1931. Ảnh: TL

Ngày 9/12/1961, về thăm quê nhà lần thứ hai, Bác Hồ chụp ảnh với chiến sĩ phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh 1930 - 1931. Ảnh: TL

Theo PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà: “Xác định mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Đảng khi mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc, tay sai trở nên sâu sắc, yêu cầu độc lập dân tộc được đặt ra bức thiết. Đây không phải là nhận thức ngẫu nhiên mà là kết quả quá trình đúc rút kinh nghiệm của Đảng qua từng thời kỳ cách mạng 1930 - 1935, 1936 - 1939, có sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ dân tộc và giai cấp ở một nước thuộc địa nửa phong kiến; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là cơ sở quan trọng để Đảng xác định đối tượng chính của cách mạng ở từng giai đoạn cụ thể, từ đó tổ chức lực lượng đánh bại kẻ thù, mở đường cho Cách mạng tháng Tám 1945 đi đến thành công”.

Liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước

Trước diễn biến dồn dập trên chiến trường Đông Dương năm 1940 - 1941, thực dân Pháp đầu hàng, thỏa hiệp với phát xít Nhật, nhân dân Việt Nam rên xiết dưới hai tầng áp bức, mâu thuẫn dân tộc với thực dân, phát xít trở nên sâu sắc, Đảng ta dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) vào ngày 19/5/1941, với tôn chỉ, mục đích "liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn... tập hợp hết thảy mọi tinh thần độc lập chân chính của giống nòi, kết thành một khối cách mạng vô địch, đặng đập ta xiềng xích của Nhật, Pháp, quét sạch những mưu mô xảo trá của một nhóm Việt gian phản quốc…”.

PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà cho rằng, để có thể huy động tối đa lực lượng dân tộc tham gia đấu tranh chống thực dân, phát xít Pháp, Nhật, bên cạnh các đoàn thể cứu quốc, Đảng đồng thời ủng hộ việc thành lập các tổ chức kháng Nhật của Hoa kiều, sẵn sàng đón nhận tầng lớp tiểu tư sản, trí thức yêu nước thuộc Đảng Việt Nam dân chủ, giới văn nghệ sĩ thuộc Hội Văn hóa cứu quốc tham gia Mặt trận Việt Minh. “Chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh của Đảng là đúng đắn bởi đây không chỉ là mặt trận thống nhất dân tộc thu hút đông đảo các giai cấp, tầng lớp mà còn tranh thủ được sự ủng hộ của phe Đồng minh trên trận tuyến chống phát xít”.

Nhằm xây dựng lực lượng liên minh chính trị rộng rãi trong mặt trận để thực hiện những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng, Đảng chủ trương công nhân và nông dân phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, vì lợi ích sống còn của dân tộc mà không ngần ngại bắt tay với tiểu tư sản và tầng lớp tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ, là những thành phần ít nhiều có lòng căm thù đế quốc. Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, PGS.TS. Hồ Khang phân tích: “Khi họ đứng vào hàng ngũ, đứng dưới ngọn cờ lãnh đạo của giai cấp vô sản, đấu tranh vì mục tiêu lớn nhất là giải phóng dân tộc thì lực lượng lãnh đạo phải làm cho họ hiểu rằng chỉ có thực hiện tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng mới thoát khỏi sự áp bức, đè nén mọi mặt của chính quyền thực dân đế quốc, chỉ có đứng vào mặt trận, quyền lợi của họ mới được giải quyết”.

Nắm rõ đặc điểm, thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong lòng xã hội thuộc địa, nửa phong kiến vốn tồn tại sự phân hóa giai cấp sâu sắc do tác động của chính sách cai trị, bóc lột của thực dân Pháp, Đảng xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng cơ bản của cách mạng vì đây là thành phần chiếm số lượng đông nhất và cũng chịu sự áp bức, bóc lột tàn bạo nhất; họ là những phần tử kiên trung, sẵn sàng hy sinh vì cách mạng. Thực tế cách mạng Việt Nam những năm 1940 - 1945 cho thấy, công - nông là lực lượng hăng hái, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chính trị, khởi nghĩa vũ trang do Đảng phát động, là lực lượng nòng cốt của Mặt trận Việt Minh.

Hương Sen

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/y-chi-ban-linh-va-khat-vong-doc-lap-dan-toc-bai-1-chu-truong-chuyen-huong-chi-dao-chien-luoc-10383903.html