105 năm từ bệnh viện có 1 khoa thành nơi thực hiện ca mổ chỉ 2 quốc gia làm được
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn (Hà Nội) hiện là bệnh viện hạng I với 7 chuyên khoa đầu ngành, quy mô 870 giường, tiếp đón 2.000-3.000 bệnh nhân mỗi ngày.
Ca mổ đặc biệt cho em bé ngoại quốc
Đầu tháng 10/2023, gia đình ông R.W, công dân Australia đang sinh sống và làm việc tại Bali (Indonesia), đã đối mặt với nỗi lo lớn khi con gái 4 tuổi được chẩn đoán mắc nang ống mật chủ - một bệnh lý nguy hiểm có thể dẫn đến viêm mật tái phát, viêm tụy, thậm chí hoại tử ống mật, đe dọa tính mạng.
Ông R.W. đã nghiên cứu kỹ lưỡng các phương pháp điều trị tại Bali, Australia, Singapore và Pháp. Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở y tế ở đó vẫn áp dụng kỹ thuật mổ mở, xâm lấn lớn và gây đau đớn, khiến ông lo lắng cho sức khỏe của con gái còn quá nhỏ.
Tình cờ, ông đọc được bài báo về kỹ thuật nội soi một lỗ do PGS.TS Trần Ngọc Sơn - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn thực hiện. Đến thời điểm đó, Việt Nam là một trong 2 quốc gia trên thế giới thực hiện kỹ thuật này. Đây là phương pháp tối ưu, ít xâm lấn hơn.

Gia đình ông R.W chụp ảnh tại bệnh viện sau ca phẫu thuật. Ảnh: BVCC.
Ông R.W. nhanh chóng liên hệ qua email với PGS Trần Ngọc Sơn, trao đổi chi tiết về tình trạng bệnh của con và quyết định đưa bé sang Việt Nam.
Ca phẫu thuật được tiến hành chỉ qua đường mổ 15mm ở rốn. Các bác sĩ khéo léo cắt túi mật, ống mật chủ giãn thành nang, rồi nối quai ruột với ống gan chung để dẫn mật. Sau mổ, bé hồi phục nhanh chóng, chỉ vài ngày đã chạy nhảy vui vẻ và xuất viện sau 7 ngày.

PGS.TS Trần Ngọc Sơn thực hiện ca mổ. Ảnh: BVCC.
Vợ chồng ông R.W. bày tỏ niềm vui khôn xiết, khẳng định lựa chọn Việt Nam là quyết định đúng đắn nhờ kỹ thuật tiên tiến và sự chăm sóc tận tình của đội ngũ y bác sĩ. Câu chuyện này không chỉ là một ca phẫu thuật thành công mà còn phản ánh sự chuyển biến tích cực của y tế Thủ đô.
Từ một bệnh viện chỉ có một Khoa Ngoại, sau 105 năm hình thành và phát triển, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn đã trở thành cơ sở y tế hàng đầu Hà Nội với hơn 40 khoa, phòng và trung tâm. Trải qua hơn một thế kỷ, bệnh viện đã đặt nền móng vững chắc cho y tế Thủ đô, với 55 năm xây dựng và phát triển kể từ khi chính thức thành lập.
Dưới đây là hành trình của bệnh viện có lịch sử lâu năm nhất của Thủ đô Hà Nội:
Giai đoạn 1920 - 1970: Từ cơ sở nhỏ đến nền tảng vững chắc
Hành trình bắt đầu từ năm 1920, khi bệnh viện chỉ là một cơ sở điều trị nhỏ với 50 giường. Đến năm 1930, bệnh viện được nâng cấp thành Bệnh viện Ngoại khoa Xanh Pôn, có một Khoa Ngoại với 90 giường bệnh. Lúc này, nhiệm vụ khám chữa bệnh chủ yếu do các thầy thuốc người Pháp đảm nhận.
Ngày 26/8/1970, Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội ra quyết định số 35/QĐ/TC thành lập Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trên cơ sở hợp nhất Bệnh viện Ngoại khoa Xanh Pôn, Bệnh viện Nhi khoa Hà Nội, Bệnh viện khu phố Ba Đình và Phòng khám Phụ khoa Hà Nội với 520 giường bệnh.

Bệnh viện những năm đầu thế kỷ 20. Ảnh: BVCC.
Giai đoạn 1970 - 1975: Củng cố trong chiến tranh
Ngay sau thành lập, Ban Giám đốc bệnh viện tiến hành củng cố đội ngũ cán bộ, mở rộng cơ sở vật chất và trang thiết bị để đáp ứng nhu cầu thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ. Bệnh viện xây dựng phân viện tại Minh Khai, thành lập hai đội công tác lưu động và hai đội phẫu thuật cơ động sẵn sàng tăng cường cho các tuyến. Trong giai đoạn này, bệnh viện giải quyết hơn 50% các trường hợp cấp cứu và phẫu thuật kịp thời cho 60% trường hợp trên địa bàn thành phố.

Ngày hội sơ kết thi y tá giỏi bệnh viện, năm 1971. Ảnh BVCC.
Giai đoạn 1976 - 1980: Xây dựng sau chiến tranh
Đội ngũ nòng cốt Khoa Sản được điều động thành lập Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Các chuyên khoa sâu thuộc khối Ngoại và Nhi được hình thành. Bệnh viện thực hiện 169 đề tài nghiên cứu khoa học và 189 sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Hai công trình nổi bật là ứng dụng kỹ thuật kết xương AO điều trị gãy xương phức tạp của bác sĩ Dương Đức Bính và xử trí cấp cứu bỏng của bác sĩ Phạm Văn Phúc, được áp dụng rộng rãi toàn quốc.


Ký kết hợp tác với Pháp và chăm sóc người bệnh trong giai đoạn chiến tranh. Ảnh: BVCC.
Giai đoạn 1981 - 1985: Kiện toàn tổ chức và hợp tác quốc tế
Bệnh viện trở thành đơn vị điểm của ngành y tế Hà Nội thực hiện Chỉ thị 81/CTTW của Ban Bí thư, tập trung xây dựng lãnh đạo, nội quy chuyên môn và phát huy quyền làm chủ của cán bộ. Các mối quan hệ hợp tác quốc tế bắt đầu hình thành.
Năm 1985, hai trung tâm Phòng và Điều trị trẻ em suy dinh dưỡng cùng Trung tâm Phòng và Điều trị Bệnh tim mạch trẻ em của tổ chức SPF và L’APPEL (Pháp) được đặt tại bệnh viện.
Giai đoạn 1986 - 1999: Hỗ trợ từ Pháp và phát triển nội tại
Với sự giúp đỡ từ Pháp, bệnh viện nhận các hạng mục hỗ trợ năm 1986, bao gồm Trung tâm Phòng bệnh Thấp khớp và Tim mạch trẻ em, Khoa Tăng cường Nhi và Sơ sinh, bể chứa nước và trạm bơm. Năm 1988, Hội đồng Khoa học bệnh viện được thành lập.

Các hoạt động hợp tác quốc tế của bệnh viện trong giai đoạn hiện nay. Ảnh: BVCC.
Năm 1991, với hỗ trợ từ Bệnh viện Việt Đức và Đại học Y Hà Nội, Khoa Phẫu thuật lồng ngực được thành lập, phẫu thuật thành công các ca cấp cứu lồng ngực và tim mạch.
Giai đoạn 2000 - đến nay: Vinh danh và mở rộng
Bệnh viện nhận Huân chương Lao động hạng Ba (2001), Huân chương Lao động hạng Nhì (2005). Năm 2010, bệnh viện vinh dự nhận Huân chương Lao động hạng Nhất. Năm 2013, bệnh viện ghi dấu mốc quan trọng khi trở thành một trong những đơn vị thực hiện thành công ghép thận, kỹ thuật này trở thành thường quy.

Lần đầu tiên lấy và ghép tạng tại cùng một bệnh viện trực thuộc Sở Y tế Hà Nội (24/8/2024). Ảnh: BVCC.
Tháng 9/2015, bệnh viện được trao danh hiệu Anh hùng Lao động. Nhiều khoa mới được thành lập như Khoa Phẫu thuật Nhi.
Đến nay, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn là bệnh viện hạng I với 7 chuyên khoa đầu ngành, quy mô 870 giường, tiếp đón 2.000-3.000 bệnh nhân mỗi ngày. Từ một Khoa Ngoại nhỏ bé, bệnh viện đã trở thành lá cờ đầu y tế Thủ đô, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, hợp tác quốc tế và chăm sóc cộng đồng.