17 triệu người Việt đang sở hữu tài sản mã hóa, quản lý thế nào?
Báo cáo của tổ chức TripleA tại Singapore cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 17 triệu người sở hữu tài sản mã hóa, chiếm 17% dân số, đứng thứ 5 toàn cầu, so với số liệu trung bình dân số toàn cầu ở mức 6,5% thì đây là con số rất lớn.
Thủ tướng Chính phủ mới đây chỉ đạo Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện hồ sơ Nghị quyết thí điểm về quản lý tài sản ảo, trình Thường trực Chính phủ trước ngày 13/3. Động thái trên nhấn mạnh tính cấp thiết của việc xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường tài sản số tại Việt Nam, nhất là trong bối cảnh lĩnh vực này đang phát triển mạnh nhưng vẫn thiếu các quy định cụ thể.
Giảm thiểu rủi ro
Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Phan Đức Trung - Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam - cho biết, tài sản mã hóa và tài sản số là cơ hội đang được nhiều quốc gia đón nhận trên toàn cầu. Theo dự báo của Công ty tư vấn toàn cầu Boston Consulting Group (BCG), đến năm 2030 tài sản mã hóa được đảm bảo bằng tài sản thực sẽ chiếm 10% GDP toàn cầu, tương đương khoảng 16.000 tỷ USD.

Tiền số được kỳ vọng sẽ sớm có khuôn khổ pháp lý.
Trong khi đó, dữ liệu từ Chainalysis - công ty phân tích dữ liệu crypto hàng đầu thế giới - cho thấy dòng chảy tài sản mã hóa vào Việt Nam liên tục duy trì trên 100 tỷ USD mỗi năm, tính từ 2022-2024, cao hơn gấp đôi dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chính thống. Nghĩa là đang tồn tại một vùng kinh tế xám chưa được luật hóa và quy định.
"Chúng ta đều có thể nhìn nhận ở góc độ quản lý nhà nước, việc ban hành khung pháp lý sẽ cần nhiều góc nhìn từ cơ hội đến giảm thiểu rủi ro và lợi ích quốc gia”, ông Trung nói và cho biết thêm, việc có khuôn khổ pháp lý dưới góc độ đổi mới công nghệ, việc chấp nhận tài sản mã hóa được bảo đảm bằng tài sản thực có thể trở thành một kênh thu hút vốn nước ngoài, đồng thời khuyến khích cả nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia.
Ông Trung nhấn mạnh, loại tài sản này không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận các tài sản truyền thống như đất đai, vàng, cổ phiếu hay trái phiếu mà còn tạo động lực cho sự đổi mới trong lĩnh vực fintech. Quá trình thu hút vốn này sẽ giúp chúng ta có góc nhìn rõ hơn về đổi mới công nghệ trong công nghệ tài chính (fintech), từ đó xây dựng chiến lược ứng dụng blockchain vào các lĩnh vực khác như logistics, y tế, và dữ liệu phân tán… Đây cũng là vấn đề mà Nghị quyết số 57 ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị nhấn mạnh, khẳng định vai trò quan trọng của công nghệ trong sự phát triển của đất nước những năm tới.
Theo ông Trung, báo cáo của tổ chức TripleA tại Singapore cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 17 triệu người sở hữu tài sản mã hóa, chiếm 17% dân số, đứng thứ 5 toàn cầu. So với số liệu trung bình dân số toàn cầu ở mức 6,5% thì đây là con số rất lớn. Những con số này phản ánh rõ ràng sự tồn tại của một nền kinh tế hoạt động ở vùng xám đáng kể, đòi hỏi những chính sách phù hợp để hợp thức hóa và thúc đẩy vào nền kinh tế chính thống. Cũng chính TripleA đã đưa ra số liệu vào năm 2023, với mức sở hữu tài sản mã hóa trên 20 triệu người tại Việt Nam, đứng thứ 3 thế giới.
“Rõ ràng sự tăng hay giảm số lượng người tham gia thị trường này không phụ thuộc vào chính sách của Việt Nam vì chúng ta đang chưa quyết định nó đi theo hướng nào”, ông Trung cho hay.
Kiến nghị pháp lý cho tiền ảo, tiền số thế nào?
Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực cho rằng, xu hướng tiền kỹ thuật số do ngân hàng trung ương phát hành (CBCD) sẽ ngày càng phổ biến và một số quốc gia như Trung Quốc… đang có ý định đẩy mạnh quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ điện tử (E-CNY). Vì vậy, Việt Nam cần sớm có nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc và có cách tiếp cận phù hợp với tiền kỹ thuật số nói chung và tiền CBCD nói riêng, bao gồm cả tiền CBCD do nước khác phát hành và mong muốn được giao dịch, chấp nhận tại Việt Nam.
“Khung pháp lý cho tài sản số nói chung và tiền kỹ thuật số nói riêng theo hướng có thử nghiệm rồi đánh giá sơ kết để quyết định nhân rộng hay thu hẹp. Trước mắt, Chính phủ cũng cần sớm ban hành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox") trong hoạt động fintech trong lĩnh vực ngân hàng, sau đó là trong các lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư…vừa kiến tạo phát triển, vừa kiểm soát rủi ro. Theo đó, tham khảo kinh nghiệm quốc tế phù hợp là rất cần thiết”, ông Lực nói.
Theo ông Lực, việc cấp phép và giám sát chặt chẽ các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số (nhất là tiền ảo, tiền mã hóa) trong nước là cần thiết. Khi các sàn giao dịch trong nước hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước, nhà đầu tư sẽ có môi trường giao dịch an toàn hơn. Điều này cũng hạn chế dòng tiền chảy ra nước ngoài thông qua các sàn giao dịch không rõ ràng…
Ông Lực cũng kiến nghị nghiên cứu áp dụng chính sách thuế đối với giao dịch tiền kỹ thuật số nói chung và tiền mã hóa nói riêng, vừa là biện pháp quản lý, vừa giúp tăng thu ngân sách. Các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Singapore đã áp dụng các mô hình thuế đối với tiền mã hóa. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm này để vừa tận dụng tiềm năng kinh tế, vừa thúc đẩy sự minh bạch trong thị trường.