20 năm thảm họa sóng thần: Aceh bình yên và phát triển

Từ trên máy bay nhìn xuống, Banda Aceh của Indonesia là một vùng xanh tốt, trù phú, những mái nhà thờ nổi bật, những khu dân cư xen giữa những mảng xanh của cây cối, những con đường, cây cầu đan xen và thành phố hiện ra sầm uất như bao thành phố khác.

Một góc Aceh. Ảnh: Đỗ Quyên

Một góc Aceh. Ảnh: Đỗ Quyên

Cả một vùng rộng lớn ven biển của Aceh gần như bị san phẳng, cuốn trôi, cùng hơn 120 ngàn ngôi nhà, các công trình xây dựng, hàng nghìn km đường giao thông… ở Aceh chỉ còn là những đống đổ nát.

Thảm họa thiên nhiên này được biết đến là một trong những thảm họa tàn khốc nhất trong lịch sử. Mặc dù để lại những đau thương sâu sắc, nhưng nó cũng cho thấy nhu cầu cơ bản về công tác phòng ngừa thảm họa. Indonesia dễ xảy ra thảm họa do nằm trong vùng kiến tạo hoạt động mạnh với 4 mảng kiến tạo chính là Ấn Độ-Australia, Á-Âu, Thái Bình Dương và Philippines, có chuyển động hội tụ. Những vụ va chạm mảng kiến tạo này có khả năng gây ra những trận động đất lớn.

Sau thảm họa, các biện pháp cảnh báo, đối phó sóng thần đã dần được thiết lập. Aceh đưa ra một chương trình ứng phó sóng thần. Các tháp cảnh báo sóng thần được đặt xung quanh thành phố Banda Aceh.

Nạn nhân và con tàu. Ảnh: Đỗ Quyên

Nạn nhân và con tàu. Ảnh: Đỗ Quyên

Nguy cơ thảm họa cao của Indonesia đã thu hút các học giả từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là sau thảm họa năm 2004. Từ năm 2005 đến năm 2024, Google Scholar đã ghi nhận khoảng 1.000 công trình khoa học về động đất và sóng thần ở Indonesia. Những nghiên cứu này đã cải thiện hiểu biết của thế giới về nguyên nhân và xu hướng động đất.

Ngoài ra là các tháp sơ tán được xây dựng – cao vài tầng, có khả năng chống chịu tác động của nước, có sân bay trực thăng trên đỉnh – để người dân có thể chạy vào khi có cảnh báo sóng thần, v.v… Ngay tại Bảo tàng sóng thần Aceh cũng có một khu vực sơ tán ở tầng trên cùng.

Ảnh: Đỗ Quyên

Ảnh: Đỗ Quyên

Vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, lúc 7:58:53 sáng giờ địa phương, một trận động đất có cường độ 9,1 độ richter (Mw) đã xảy ra ngoài khơi bờ biển phía tây Aceh. Trận động đất bắt nguồn từ độ sâu 30 km dưới biển, gây ra một trận sóng thần tàn phá tỉnh này. Nghiên cứu năm 2021 cho thấy cường độ của trận động đất thực sự lớn hơn những gì đã ghi nhận trước đó: 9,2 Mw. Các nhà khoa học đã đi đến kết luận này sau khi tính toán lại dữ liệu sóng thần bằng Hàm Green, một phương pháp toán học phân tích cách sóng thần hình thành và lan truyền. Điều này giúp họ ước tính chính xác hơn về cường độ của trận động đất. Từ ngày 26 tháng 12 năm 2004 đến ngày 26 tháng 2 năm 2005, Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) đã ghi nhận khoảng 2.050 dư chấn. Tác động của trận động đất và sóng thần Aceh năm 2004 đã lan rộng ra ngoài Indonesia, ảnh hưởng đến các bờ biển ở Đông Nam Á, Nam Á và có thể là Châu Phi. Hơn 227.000 người đã thiệt mạng, riêng Aceh đã có khoảng 167.000 người thiệt mạng.

Bức tường tên các nạn nhân. Ảnh: Đỗ Quyên

Bức tường tên các nạn nhân. Ảnh: Đỗ Quyên

Indonesia nằm trên "Vành đai lửa Thái Bình Dương" một khu vực có hoạt động địa chấn mạnh trên đỉnh của nhiều mảng kiến tạo, nên thường xuyên xảy ra động đất. Tuy nhiên, Aceh vốn không phải là vùng có nhiều động đất nên tâm lý người dân hoàn toàn không có sự đề phòng.

Sự dịch chuyển giữa hai mảng kiến tạo ở Ấn Độ Dương đã tạo ra một đứt gãy đẩy, gây ra trận động đất năm 2004. Đứt gãy này kéo dài 500 km, gần bằng khoảng cách giữa Jakarta và Yogyakarta, với chiều rộng khoảng 150 km. Được gọi là "trận động đất đẩy cực mạnh", các mảng kiến tạo dịch chuyển hơn 20 mét, giải phóng năng lượng khổng lồ và gây ra sóng thần cao tới 35 m, tương đương với chiều cao của một tòa nhà 10 tầng. Ngoài động đất và sóng thần, các chuyển động kiến tạo cũng có thể gây ra hoạt động núi lửa.

Nhà thờ. Ảnh: Đỗ Quyên

Nhà thờ. Ảnh: Đỗ Quyên

Indonesia, một phần của Vành đai lửa Thái Bình Dương, có 127 ngọn núi lửa đang hoạt động, khiến nơi đây trở thành khu vực có hoạt động địa chấn và núi lửa mạnh nhất thế giới. Từ năm 1900 đến năm 2023, Indonesia đã ghi nhận 14.820 trận động đất có cường độ lớn hơn 5 Mw. Trong số đó, 15 trận có cường độ lớn hơn 8 Mw, bao gồm trận động đất Aceh năm 2004. Indonesia cũng có một số vùng megathrust, các khu vực dọc theo ranh giới mảng kiến tạo dễ gây ra động đất lớn như sự kiện năm 2004. Có 13 vùng megathrust được xác định gần vùng biển ngoài khơi phía tây Sumatra, phía nam Java, Bali, Nusa Tenggara, phía bắc Sulawesi, Halmahera và Papua. Các vùng này dễ gây ra động đất có cường độ từ 7,8 đến 9,2 Mw, có khả năng gây ra sự tàn phá lớn và sóng thần.

Trong 30 năm qua, một số vùng siêu đẩy của Indonesia đã giải phóng năng lượng địa chấn. Các vùng này là nguồn gốc của các trận động đất lớn như Biak năm 1996, Banyuwangi năm 1994, Aceh năm 2004, Nias năm 2005, Pangandaran năm 2006 và Bengkulu năm 2007. Tuy nhiên, dữ liệu từ 123 năm qua cho thấy một số khu vực của vùng siêu đẩy hiếm khi xảy ra động đất lớn. Điều này có thể là do các chuyển động kiến tạo ở những vị trí này bị kẹt, khiến ứng suất tích tụ theo thời gian. Những "khoảng trống địa chấn" này chỉ ra các khu vực có nguy cơ cao xảy ra động đất lớn trong tương lai. Ví dụ, có một khoảng cách địa chấn giữa các vùng megathrust ngoài khơi bờ biển phía tây và phía đông của Java. Ở vùng hút chìm phía tây Java, sự thâm hụt trượt, hay chuyển động của mảng bị khóa tại chỗ, đã đạt tới 40-60 mm mỗi năm. Nếu năng lượng này cuối cùng được giải phóng, nó có thể dẫn đến một trận động đất lớn và có thể là sóng thần.

Nguy cơ thảm họa cao của Indonesia đã thu hút các học giả từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là sau thảm họa năm 2004. Từ năm 2005 đến năm 2024, Google Scholar đã ghi nhận khoảng 1.000 công trình khoa học về động đất và sóng thần ở Indonesia. Những nghiên cứu này đã cải thiện hiểu biết của thế giới về nguyên nhân và xu hướng động đất. Ví dụ, nghiên cứu về sóng thần Palu và eo biển Sunda năm 2018 cho thấy không có nguyên nhân nào là do động đất gây ra. Sóng thần Palu là kết quả của một trận lở đất dưới biển do trận động đất 7,5 độ vào ngày 28/9/2018 gây ra. Trong khi đó, sóng thần eo biển Sunda là do sự sụp đổ của sườn núi lửa Anak Krakatau.

Các học giả Indonesia cũng đã nghiên cứu nguồn gốc của động đất lớn và dư chấn. Các nhóm từ Cơ quan Nghiên cứu và Đổi mới Quốc gia (BRIN), Cơ quan Khí tượng, Khí hậu và Địa vật lý (BMKG) và Viện Công nghệ Bandung (ITB) đã xem xét các mô hình dư chấn để tìm hiểu thêm về nguồn gốc của động đất và cách chúng hoạt động. Trong số những mô hình được nghiên cứu chặt chẽ có động đất Lombok năm 2018 và Cianjur năm 2022. Điều này đã dẫn đến những ý tưởng mới để giảm thiểu rủi ro và thiệt hại.

Hệ thống cảnh báo sớm sóng thần Indonesia (InaTEWS), do Cơ quan Khí tượng, Khí hậu và Địa vật lý (BMKG) quản lý, tiếp tục khuyến khích hợp tác nghiên cứu địa chấn. Đến nay, hệ thống đã có 521 trạm địa chấn trải rộng khắp Indonesia, cho phép truyền dữ liệu động đất nhanh hơn đến công chúng, đặc biệt là cảnh báo sóng thần kịp thời sau các trận động đất lớn.

Trong khi các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu chuyển động kiến tạo, việc dự đoán chính xác động đất và sóng thần vẫn là điều không thể. Do đó, việc giảm thiểu rủi ro là rất quan trọng. Các nỗ lực giảm thiểu thiên tai bao gồm giáo dục công chúng và sử dụng cơ sở hạ tầng chống động đất. Những điều này đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều bên liên quan.

Năm 2007, Indonesia đã thông qua Luật Giảm nhẹ Thiên tai, nêu chi tiết các hoạt động giảm thiểu rủi ro, bao gồm cả giảm nhẹ. Luật này thúc đẩy sự hợp tác giữa năm yếu tố chính: chính phủ, cộng đồng, học viện, tập đoàn và phương tiện truyền thông, một khuôn khổ được gọi là "pentahelix". Sự hợp tác là điều cần thiết để giảm thiểu thảm họa thành công. Tuy nhiên, các vấn đề như tâm lý cục bộ, từ chối chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan chức năng, có thể gây nguy hiểm cho các nỗ lực nghiên cứu và giảm thiểu động đất. Cuối cùng, giảm thiểu rủi ro thiên tai là trách nhiệm chung. Xây dựng một hệ thống giảm thiểu mạnh mẽ và bền vững hơn đòi hỏi sự phối hợp và truyền thông thể chế được cải thiện.

Người đứng đầu Cơ quan quản lý thiên tai Aceh (BPBA), Teuku Nara Setia S.Ak., M.Si., cho biết, so với 20 năm trước, hiện nay Aceh đã có nhiều bước tiến trong việc sẵn sàng đối mặt với thiên tai. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá mức độ sẵn sàng khắc phục các thảm họa tiềm ẩn trong tương lai.

Sau khi viếng các khu mộ tập thể, những người sống sót tập trung cầu nguyện tại thánh đường Ulee Lheue - một trong số ít thánh đường Hồi giáo nhìn ra biển ở khu vực vẫn còn trụ vững sau khi sóng thần tràn qua. Ảnh: Đỗ Quyên

Sau khi viếng các khu mộ tập thể, những người sống sót tập trung cầu nguyện tại thánh đường Ulee Lheue - một trong số ít thánh đường Hồi giáo nhìn ra biển ở khu vực vẫn còn trụ vững sau khi sóng thần tràn qua. Ảnh: Đỗ Quyên

Theo Teuku Nara, mặc dù cảnh báo sóng thần được thực hiện hàng năm nhưng 20 năm là một dấu mốc đặc biệt. BPBA đã tổ chức nhiều hoạt động quốc gia khác nhau, bao gồm các hội thảo quốc tế với sự tham gia của 53 quốc gia để thảo luận về công tác chuẩn bị giảm nhẹ thiên tai. Ông nói: “Chúng tôi cũng thực hiện các mô phỏng để chuẩn bị cho mọi người những thảm họa như động đất và sóng thần”.

Ngoài ra, BPBA còn giáo dục cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ, với các chương trình bao gồm đào tạo tại trường học, cấp làng và cấp huyện. Teuku Nara nói thêm : “Ở Aceh, những khu vực như Semelu là một ví dụ trong việc truyền bá hiểu biết về cách tự cứu mình khỏi thảm họa”. Những nỗ lực này bao gồm việc nâng cao hiểu biết về sơ tán, các tuyến đường cứu hộ và tầm quan trọng của cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng thân thiện với thiên tai.

Teuku Nara cũng nhấn mạnh sự hợp tác với Nhật Bản, quốc gia từ lâu đã là đối tác trong lĩnh vực thảm họa. Thành công trong việc giảm nhẹ thiên tai ở Nhật Bản, đặc biệt là sau trận sóng thần và động đất lớn, đã trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho các chiến lược giảm nhẹ thiên tai ở Aceh.

Ông cho rằng thảm họa không thể đoán trước được và điều quan trọng là cộng đồng và chính phủ phải luôn cảnh giác. Ông nói: “Việc chuẩn bị phải tiếp tục được thực hiện, ngay cả khi không có thảm họa. Điều này bao gồm việc cập nhật các kế hoạch giảm thiểu thiên tai và diễn tập sơ tán”.

Mặc dù Aceh đã thực hiện nhiều bước quan trọng sau thảm họa, Teuku Nara thừa nhận rằng vẫn còn những thách thức trong việc thực hiện kế hoạch chi tiết về đối phó với thảm họa, đặc biệt là trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng được chuẩn bị tốt hơn để đối mặt với thảm họa. Ông kết luận: “Chúng ta cần tiếp tục đổi mới và tăng cường hợp tác giữa tất cả các bên để xây dựng khả năng chống chịu thảm họa tốt hơn”.

Cuối cùng, ông kêu gọi công chúng tiếp tục tăng cường khả năng chuẩn bị và hỗ trợ các chương trình giảm nhẹ thiên tai đang tiếp tục được thực hiện ở Aceh, nhằm tạo ra một môi trường an toàn hơn và kiên cường hơn.

Những tác động ngày càng thường xuyên hơn và với cường độ lớn hơn của thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra đòi hỏi mỗi người phải có cái nhìn mới, nhận thức mới, ứng xử mới về cuộc sống cũng như các hành động của mình để bảo vệ môi trường sống và sự tồn tại của chính mình, cũng như sự hợp tác trong nước và quốc tế để đối phó với các thách thức chung mang tính toàn cầu – bài học lớn nhất và quan trọng nhất có thể rút ra từ sự kiện lịch sử này.

Năm 2005, Hệ thống cảnh báo và giảm thiểu sóng thần Ấn Độ Dương đã được xây dựng để phát hiện các dấu hiệu ban đầu của sóng thần và nhanh chóng cảnh báo cho các cộng đồng địa phương tại 27 quốc gia.

Các hệ thống cảnh báo nâng cấp cũng đã được lắp đặt ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, đảm bảo các cộng đồng có nhiều thời gian hơn để di tản đến vùng đất cao hơn khi sóng thần tràn vào đất liền.

Đỗ Quyên (P/v TTXVN tại Indonesia)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/the-gioi/20-nam-tham-hoa-song-than-aceh-binh-yen-va-phat-trien-20241225113937537.htm