2026 - năm bản lề mở đầu kỷ nguyên tăng trưởng mới
2026 là năm đầu tiên trong kế hoạch tăng trưởng 2 chữ số liên tục của Chính phủ với mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao năm 2030.

Theo báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 vừa qua, tăng trưởng GDP năm 2025 của Việt Nam dự kiến đạt trên 8%, qua đó kéo mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2025 lên 6,3%/năm, cao hơn nhiệm kỳ trước (6,2%/năm).
Trong đó, nếu không tính năm 2021 bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tăng trưởng chỉ đạt 2,55%, giai đoạn 4 năm 2022-2025 tăng trưởng bình quân của nước ta đã đạt 7,2%/năm, vượt mục tiêu 6,5-7%.
Việt Nam tăng trưởng vượt mọi dự báo
Với mức tăng trưởng kể trên, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng vọt từ 346 tỷ USD năm 2020 lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc trên toàn cầu, xếp thứ 32 thế giới. GDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt khoảng 5.000 USD, chính thức vào nhóm nước thu nhập trung bình cao.
Đáng chú ý, mức tăng trưởng 8% kể trên của Việt Nam cũng vượt mọi dự báo từ các tổ chức tài chính quốc tế lớn.
Nửa đầu năm 2025, hầu hết tổ chức tài chính thế giới đưa dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm nay dưới 7%. Trong đó, Ngân hàng Standard Chartered dự báo tăng 6,1%; HSBC dự báo mức 6,6%; Ngân hàng UOB dự báo 6,9%; ADB và World Bank dự báo GDP Việt Nam tăng 6,6%.
Tuy nhiên, sau kết quả tăng trưởng mạnh mẽ 3 quý đầu năm, cùng số liệu tích cực trong tháng 10-11, các tổ chức tài chính đã đồng loạt điều chỉnh dự báo tăng trưởng của Việt Nam. Trong đó, Standard Chartered nâng dự báo lên 7,5%; HSBC nâng lên 7,9%; UOB nâng lên 7,5%; và ADB nâng lên 6,7%...

Bên cạnh chỉ tiêu tăng trưởng GDP, Chính phủ cũng chỉ ra một loạt kết quả tích cực nền kinh tế ghi nhận được năm nay.
Trong đó, cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng đã có chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, và các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm.
Quy mô thương mại nước ta đã tăng mạnh từ 545,4 tỷ USD năm 2020 lên mức kỷ lục khoảng 900 tỷ USD năm nay, thuộc nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới. Giá trị xuất siêu lớn, ước đạt 88,3 tỷ USD, tăng hơn 2 lần nhiệm kỳ trước. Du lịch cũng phục hồi, năm 2025 đón khoảng 22-23 triệu lượt khách quốc tế, cao nhất từ trước đến nay.
Theo Chính phủ, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được triển khai quyết liệt, đạt kết quả bước đầu quan trọng. Trong đó, Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia và Trung tâm dữ liệu quốc gia đã đi vào hoạt động. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025 của Việt Nam xếp hạng 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử, tốc độ tăng trưởng bình quân những năm gần đây đạt 20%/năm; phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số có bước tiến quan trọng; Đề án 06 tạo chuyển biến căn bản trong phục vụ người dân, doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí xã hội khoảng 3.000 tỷ đồng/năm.
Đến cuối năm 2025, Việt Nam đã có khoảng 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, tăng trên 20% so năm 2020.
Một điểm sáng trong năm 2025 là đột phá phát triển hệ thống hạ tầng giao thông với nhiều công trình lớn, hiện đại, có tính kết nối hoàn thành. Đến hết năm 2025, Việt Nam dự kiến hoàn thành 3.245 km đường bộ cao tốc (vượt mục tiêu đặt ra ban đầu là 3.000 km) và 1.711 km đường ven biển (vượt mục tiêu ban đầu 1.700 km). Cũng trong năm nay, Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 tiêu chuẩn 4F đầu tiên tại Việt Nam sẽ cơ bản hoàn thành, đồng thời các tuyến vành đai, đường sắt đô thị, cảng biển, cảng hàng không… sẽ được đưa vào hoạt động.

Khoảnh khắc lịch sử của hàng không Việt Nam khi Vietnam Airlines đáp chuyến bay đầu tiên xuống sân bay Long Thành ngày 15/12 vừa qua. Ảnh: Quỳnh Danh.
Dù vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, Chính phủ đánh giá nước ta vẫn còn một số hạn chế, khó khăn. Trong đó, áp lực điều hành ổn định kinh tế vĩ mô còn lớn. Cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để khai thác hiệu quả nguồn lực từ con người, thiên nhiên, văn hóa và để bảo vệ môi trường.
Các thị trường bất động sản, vàng, trái phiếu còn diễn biến phức tạp. Sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực còn khó khăn. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa thực sự trở thành động lực tăng trưởng chính…
Bên cạnh đó, Chính phủ đánh giá việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp là việc khó, thực hiện trên quy mô lớn, thời gian ngắn, yêu cầu cao nên có nơi còn lúng túng, chưa đồng bộ.
Tình trạng ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, ngập úng, sụt lún, sạt lở… tại các đô thị lớn, miền núi chưa được xử lý hiệu quả.
Bản lề của kỷ nguyên mới
Theo mục tiêu Chính phủ đặt ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân nước ta giai đoạn 2026-2030 sẽ đạt 10%/năm trở lên, GDP bình quân đầu người theo đó dự kiến đạt 8.500 USD vào năm 2030. Trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Quy mô GDP trong nhóm 30 nền kinh tế hàng đầu thế giới, thứ 3 khu vực ASEAN.
Trong cơ cấu nền kinh tế, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo dự kiến đạt khoảng 28% GDP; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 8,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%...
Trong mục tiêu này, năm 2026 không chỉ là năm khởi đầu mà còn là năm bản lề cho cả giai đoạn tăng trưởng nhanh liên tục.
Để đạt mục tiêu, Chính phủ đã xác định bên cạnh tiếp tục phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống là xuất khẩu, đầu tư công, tiêu dùng, phải thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới. Cần phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo…
Đồng thời, cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế thử nghiệm có kiểm soát cho các mô hình kinh doanh mới. Hoàn thiện hành lang pháp lý và phát triển đồng bộ các loại thị trường (tài chính, chứng khoán, vàng, khoa học công nghệ, lao động, bất động sản…).
Triển khai hiệu quả thí điểm thị trường tài sản mã hóa, thúc đẩy hình thành thị trường dữ liệu, đẩy mạnh xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM, Đà Nẵng và các khu thương mại tự do thế hệ mới tại một số địa phương.




Trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do, cùng các dự án hạ tầng trọng điểm như sân bay Long Thành giai đoạn 2, đường sắt cao tốc Bắc - Nam... được xác định là những động lực tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2026-2030. Ảnh: Quỳnh Danh.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đặt mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế. Xây dựng Chương trình phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, công nghiệp mới nổi như đường sắt, năng lượng nguyên tử, năng lượng xanh, dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để khai thác hiệu quả không gian vũ trụ, không gian biển, không gian ngầm; phát triển công nghiệp hỗ trợ…
Hoàn thiện các công trình hạ tầng chiến lược cũng được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, đẩy nhanh tiến độ triển khai tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, các tuyến đường sắt kết nối với Trung Quốc, đường sắt đô thị Hà Nội và TP.HCM; phấn đấu khởi công đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Trong giai đoạn 2026-2030, Chính phủ cũng dự kiến triển khai giai đoạn 2 dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, đường giao thông kết nối sân bay Tân Sơn Nhất; bảo đảm tiến độ xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, các dự án mở rộng Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, Chu Lai, Phù Cát, Cà Mau, Thổ Chu; các cảng biển trung chuyển quốc tế Cần Giờ, Liên Chiểu và Cảng Hòn Khoai. Bảo đảm tiến độ các dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2…
"Chìa khóa" cho mọi tăng trưởng
Trước quyết tâm lớn của Chính phủ, các chuyên gia đều cho rằng để đạt mục tiêu tăng trưởng tối thiểu 10% cho năm 2026, việc lớn nhất cần giải quyết chính là vốn. Bao gồm cả vốn đầu tư công và vốn cho doanh nghiệp.
Đầu năm nay, Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng tiết lộ Việt Nam cần hơn 4 triệu tỷ đồng (khoảng 160 tỷ USD) để thúc đẩy tăng trưởng 8% cho năm 2025.
Với tỷ lệ kể trên, để đạt mục tiêu tăng trưởng tối thiểu 10% năm 2026, Việt Nam sẽ cần một lượng vốn khổng lồ.
Theo người đứng đầu ngành tài chính, ngoài nguồn vốn chuẩn bị từ ngân sách Nhà nước, thị trường vốn là kênh huy động rất quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng, cũng cho rằng Việt Nam phải đầu tư mạnh vào công nghệ và tái cấu trúc thị trường vốn để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 chữ số năm 2026.
Mô hình phát triển của Việt Nam trong thời gian tới không chỉ nằm ở tăng trưởng kinh tế, mà còn phải hài hòa với ổn định chính trị, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng quản trị
TS Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng
Theo ông, mô hình phát triển của Việt Nam trong thời gian tới không chỉ nằm ở tăng trưởng kinh tế, mà còn phải hài hòa với ổn định chính trị, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng quản trị.
Trong đó, mô hình phát triển mới cần hội tụ 4 yếu tố: tăng trưởng nhanh và bền vững; chuyển dịch trọng tâm sang năng suất, khoa học công nghệ; kết hợp đồng thời 3 yếu tố đầu tư, tiếp thu công nghệ, đổi mới sáng tạo; và huy động, phân bổ nguồn lực hiệu quả.
“Việt Nam muốn phát triển nhanh thì phải đầu tư mạnh mẽ hơn vào khoa học công nghệ, đồng thời không thể thiếu vai trò của vốn”, TS Cấn Văn Lực nói đồng thời cho biết nhiều nước từng ghi nhận mức tăng trưởng cao có tỷ lệ vốn đóng góp tới 40-50% GDP.
Trong khi đó, Việt Nam hiện mới đạt tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 33% GDP, trong khi nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xanh, ứng phó khí hậu và đổi mới công nghệ ngày càng lớn.
Theo vị chuyên gia, Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh thế giới tăng trưởng chậm, nhiều rủi ro và bất định. Do đó, nước ta cần hoàn thiện thể chế, phát triển thị trường vốn cân bằng hơn, giảm phụ thuộc tín dụng ngân hàng; sớm vận hành thị trường carbon, thúc đẩy thị trường tài sản số; duy trì ổn định vĩ mô để dòng vốn chuyển từ đầu cơ sang sản xuất…
Riêng với lĩnh vực tài sản số - một trong những động lực tăng trưởng mới - ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam kiêm Chủ tịch Công ty 1Matrix, cho rằng việc Việt Nam dần hình thành khung pháp lý cho tài sản số được xem là động lực mới cho nền kinh tế, với sự chuyển dịch mạnh mẽ từ khung pháp lý đến hạ tầng công nghệ.
Ông dự báo cơ quan quản lý nhiều khả năng ưu tiên các loại tài sản an toàn, như xu hướng token hóa tài sản thực (Real World Assets - RWA), trong khi các mô hình rủi ro hơn như quỹ ETF hay phái sinh có thể chưa được áp dụng ngay.
Ông Trung thừa nhận để tài sản số, tài sản mã hóa thực sự trở thành nguồn vốn cho nền kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng chung, Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Trong đó, Việt Nam cần tập trung giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực chất lượng cao và đầu tư nghiêm túc vào hạ tầng công nghệ bảo mật, đặc biệt là công nghệ lưu ký.
“Tài sản số là một nguồn lực tiềm năng rất lớn, nhưng để đưa vào phục vụ mục tiêu phát triển, chúng ta cần giải quyết đồng thời rất nhiều vấn đề”, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam nói và cho biết thách thức lớn nhất là làm sao đồng bộ giữa các vấn đề nhân lực - công nghệ - khung pháp lý - tuân thủ.
Nguồn Znews: https://znews.vn/2026-nam-ban-le-mo-dau-ky-nguyen-tang-truong-moi-post1611939.html














