205 năm Ngày sinh Các Mác (5/5/1818 - 5/5/2023): 'Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi'
Vào ngày này cách đây 205 năm, ngày 5/5/1818, nhân loại chào đón Các Mác (Karl Marx) - nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại, người thầy thiên tài của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - chào đời. Những cống hiến to lớn của Các Mác đã đi vào lịch sử thế giới như một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời trí tuệ của nhân loại, đúng như Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) đã khẳng định: 'Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi'.
Các Mác - nhà tư tưởng vĩ đại
Các Mác sinh ngày 5/5/1818, tại thành phố Trier cổ kính, miền Tây nước Đức, trong gia đình luật sư Henrích Mác (Heinrich Marx).
Ngay khi còn là học sinh trung học, trong luận văn tốt nghiệp về “Suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề”, Các Mác đã viết: “Lịch sử gọi những con người tự làm cho mình trở nên cao quý bằng việc cống hiến cho sự nghiệp chung, là những con người vĩ đại; kinh nghiệm ca ngợi con người đem lại hạnh phúc cho hầu hết mọi người, là con người hạnh phúc nhất”. Và cũng ngay từ thời gian này, ông đã bộc lộ khát vọng muốn phục vụ nhân loại, muốn có cuộc sống sao cho xứng đáng với cuộc sống của một con người chân chính nhất. Các Mác cho rằng, “nếu một người chỉ lao động vì mình thôi, thì người đó có thể trở thành một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái lớn, một nhà thơ tuyệt vời, nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con người thật sự hoàn thiện...”; còn, “nếu chúng ta chọn được một nghề mà chúng ta có thể cống hiến nhiều nhất cho nhân loại, thì chúng ta sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy”; hạnh phúc của chúng ta sẽ được nhân lên gấp bội vì nó không chỉ là của chúng ta nữa mà nó thuộc về hàng triệu người... Và đúng như vậy, những phát minh của Các Mác đã đem lại bước phát triển nhảy vọt đối với nhận thức về lịch sử nhân loại, về xã hội và đã đem lại những thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Suốt cuộc đời của mình cho đến khi qua đời, Các Mác đã vượt lên mọi trở ngại để đi thẳng đến mục tiêu của mình. Ông đã đấu tranh và chiến thắng với trái tim nóng bỏng, ý chí sắt đá và niềm tin mãnh liệt vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Không bao giờ ông nhân nhượng kẻ thù, lùi bước trước khó khăn. Các Mác mang hết công sức nghiên cứu khoa học để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Ông tin tưởng mãnh liệt rằng: “Đối với khoa học, không có con đường nào bằng phẳng thênh thang cả, chỉ có những người không sợ chồn chân mỏi gối để trèo lên những con đường nhỏ bé gập ghềnh của khoa học mới có hy vọng đạt tới đỉnh cao xán lạn của khoa học mà thôi”. Và ý chí, nghị lực, công phu lao động khổ luyện đó của Các Mác trong suốt cuộc đời đã để lại những thành quả vô cùng quan trọng.
Về triết học, Các Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới, mà hạt nhân của nó là phép biện chứng duy vật. Ông khẳng định, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển sản xuất, lịch sử những phương thức sản xuất kế tiếp nhau, cũng tức là lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng nhân dân là động lực phát triển của lịch sử, là đội quân chủ lực của các cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn. Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân, có lý luận tiền phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng để phá bỏ chế độ áp bức, bóc lột cũ, xây dựng chế độ mới, chế độ cộng sản chủ nghĩa.
Về kinh tế chính trị học, Các Mác đã tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản. Một trong những phát hiện vĩ đại của ông trong kinh tế chính trị học là đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư. Các Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Và đấu tranh giai cấp chính là động lực phát triển xã hội.
Về chủ nghĩa xã hội khoa học, Các Mác phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Ông tìm ra quy luật vận động phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có sứ mệnh tiêu diệt chế độ tư bản và sáng tạo xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản phải đi tới thành lập chuyên chính vô sản và dùng nó làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Cống hiến đặc biệt của Các Mác còn là ông cùng với Ăngghen thành lập các tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới, như: Liên đoàn những người cộng sản (1848), Quốc tế thứ nhất (1864), Quốc tế thứ hai (1889). Thông qua hoạt động trong phong trào và tổng kết thực tiễn, ông đã đặt nền móng vững chắc cho học thuyết về xây dựng đảng của giai cấp công nhân quốc tế. Tuy còn sơ khai nhưng trong học thuyết của ông đã khẳng định đảng của giai cấp công nhân, đảng cộng sản phải mang trong mình bản chất của giai cấp công nhân. Ông cũng là người nêu ra những quan điểm đầu tiên về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản, thể hiện trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản, Quốc tế thứ nhất, Quốc tế thứ hai với những nội dung chủ yếu về đoàn kết thống nhất trong Đảng, về mối quan hệ giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng với đội ngũ đảng viên, về kỷ luật của Đảng, về hệ tư tưởng của Đảng...
Những quan điểm này đã được Lênin kế thừa, phát triển và hoàn chỉnh học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ngày nay. Nhờ học thuyết về xây dựng Đảng cộng sản của Mác, Ăngghen và Lênin, những người cộng sản trên toàn thế giới đã có hơn một thế kỷ hình thành phong trào công nhân quốc tế với các Đảng cộng sản kiểu mới và đã góp phần làm thay đổi bản đồ chính trị trên thế giới với những cột mốc vĩ đại, như: thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Chiến thắng Hồng quân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, những thành tựu xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô-Đông Âu và các nước khác trên thế giới trong thập niên 40, 50, 60, 70 của thế kỷ XX.
Ngày nay, học thuyết của Mác nói chung và học thuyết về xây dựng đảng nói riêng không những còn nguyên giá trị mà còn được các Đảng cộng sản ngày nay bổ sung thêm những nội dung mới, làm cho những quan điểm dẫn đường của ông tiếp tục tỏa sáng.
Khái quát những thành tựu vĩ đại mà Các Mác cống hiến cho giai cấp vô sản và nhân loại, người cộng tác với ông, Ph.Ăngghen đánh giá: “Giống như Ðác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người... Nhưng không phải chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong bóng tối… Người nào mà có được một phát minh như vậy thì hẳn là đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng, Mác đã có những phát minh khác hẳn nhau trong mỗi lĩnh vực mà ông nghiên cứu... Bằng cách này hay cách khác, tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện để giải phóng mình - đó thật sự là sứ mệnh thiết thân của ông”.
Sức sống vững bền của chủ nghĩa Mác
Đối với Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành sức mạnh vật chất và di sản tinh thần quý báu, gắn liền với truyền thống yêu nước của dân tộc. Trên con đường đi tìm chân lý cứu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã sớm tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa gắn với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình; luôn vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giai cấp và dân tộc, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu, nhân dân ta tiếp tục giành được những thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ðảng luôn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, với sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bị áp bức và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Qua gần 40 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp, đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để đất nước tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh thế giới ngày nay đầy biến động, Đảng ta vẫn luôn giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên trì đường lối đổi mới, coi đây là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Lịch sử đã chỉ cho chúng ta rằng, cùng với sự phát triển của thời đại, chúng ta càng phải kiên trì phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin; xác định rõ đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là xa rời, mà là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới.
Có thể nói, những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong gần 40 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Đây chính là minh chứng sinh động, đầy sức thuyết phục về giá trị bền vững và sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà Các Mác là một trong những lãnh tụ đầu tiên sáng lập.
Mặc dù hiện nay có nhiều điểm khác nhau về con đường và xu thế phát triển của từng dân tộc, song con đường mà Các Mác đã vạch ra cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mãi mãi là chân lý của loài người tiến bộ./.
Theo TTXVN