3 then chốt trong chiến lược mới về đối ngoại, hội nhập quốc tế

'Đối ngoại, hội nhập quốc tế' được xếp ngang hàng với quốc phòng và an ninh là bước đột phá trong tư duy chiến lược của Đảng, thể hiện tầm nhìn mới về bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.

Trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, lần đầu tiên Đảng xác định “đối ngoại, hội nhập quốc tế” cùng với “quốc phòng, an ninh” là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”.

Quan điểm chỉ đạo này đánh dấu bước đột phá trong tư duy chiến lược của Đảng về bảo vệ và phát triển đất nước, nhấn mạnh rằng sức mạnh của một quốc gia không chỉ dựa vào quân sự, mà phải được mở rộng, bao trùm kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, ngoại giao và hội nhập quốc tế. Ở đó, mặt trận đối ngoại phản ánh khả năng tạo dựng thế, lực trên bàn cờ quốc tế, biết “chọn bạn mà chơi”, “kết bạn để cùng thắng” và được coi là một tuyến đầu để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đây chính là sự kết hợp biện chứng giữa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm, giữa nội lực quốc gia và sức mạnh của thời đại, giữa giữ nước và dựng nước.

Từ hỗ trợ chuyển sang đồng hành

Có thể nói sự thay đổi vị trí, vai trò của “đối ngoại, hội nhập quốc tế” từ hỗ trợ chuyển sang đồng hành cùng “quốc phòng, an ninh” chịu sự tác động, thúc đẩy bởi các nguyên nhân khách quan. Trước tiên là những diễn biến phức tạp của cục diện thế giới. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chính, song cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh, xung đột cục bộ, những thách thức phi truyền thống như an ninh mạng, biến đổi khí hậu, dịch bệnh... tác động đa chiều đến môi trường an ninh, phát triển của nước ta.

 Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Anh Keir Starmer trao Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Anh lên Đối tác chiến lược toàn diện. Ảnh: TTXVN

Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Anh Keir Starmer trao Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Anh lên Đối tác chiến lược toàn diện. Ảnh: TTXVN

Trong bối cảnh đó, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh nhiệm vụ đối ngoại không còn là nhất thời mà phải liên tục, theo dõi, điều phối chính sách theo từng diễn biến mới. Và điều này cho thấy sức mạnh mềm ngày càng chứng minh tầm quan trọng của mình.

Bởi vậy, nâng đối ngoại lên ngang tầm quốc phòng, an ninh là sự khẳng định tầm nhìn chủ động, sáng tạo của Đảng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chỉ đạo trên còn xuất phát từ sự trưởng thành mạnh mẽ của Việt Nam sau bốn thập niên đổi mới, hội nhập. Tại Nghị quyết 59, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết 22, Bộ Chính trị khóa XIII khẳng định chúng ta đã bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước; chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Việt Nam đã nhiều lần đảm nhiệm các trọng trách, nhiệm vụ quốc tế quan trọng như Chủ tịch ASEAN, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ), Ủy viên Hội đồng nhân quyền quốc tế. Đồng thời, đã cử hơn 1.000 sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ.

Nước ta hiện có quan hệ ngoại giao với 195 quốc gia (trong đó có 193 quốc gia là thành viên LHQ), có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 14 quốc gia, là thành viên tích cực của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP…

Những thành tựu vừa nêu là cơ sở để Đảng ta xác định đối ngoại không chỉ là yếu tố hỗ trợ, mà là sức mạnh trực tiếp bảo đảm an ninh, quốc phòng, phát triển và nâng cao vị thế quốc gia.

Tuy nhiên, tôi cho rằng cần thẳng thắn nhìn nhận, ở một số lĩnh vực, tư duy hội nhập của Việt Nam vẫn còn giản đơn, cục bộ, hiệu quả chưa cao, năng lực dự báo và tham gia định hình các luật chơi quốc tế còn hạn chế.

Mặt trái của hội nhập như phụ thuộc chuỗi cung ứng, rủi ro công nghệ, xung đột giá trị văn hóa… vẫn chưa được đánh giá, xử lý đúng mức. Mỗi sự thay đổi chính sách của một đối tác thương mại lớn, một biến động về giá năng lượng, hay một rủi ro pháp lý trên thị trường quốc tế đều có thể lập tức tác động đến sự ổn định vĩ mô trong nước khiến an ninh kinh tế và an ninh quốc gia hòa vào làm một.

Từ thực tiễn này, Đảng ta đã nâng tầm đối ngoại, hội nhập quốc tế để chủ động ứng phó và dẫn dắt, góp phần định hình môi trường có lợi cho Việt Nam.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Thủ tướng Campuchia Hun Manet và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone có buổi ăn sáng, làm việc do Thủ tướng Campuchia chủ trì, nhân chuyến tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 47 và các Hội nghị Cấp cao liên quan diễn ra tại Kuala Lumpur, Malaysia ngày 27-10. Ảnh: TTXVN

Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Thủ tướng Campuchia Hun Manet và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone có buổi ăn sáng, làm việc do Thủ tướng Campuchia chủ trì, nhân chuyến tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 47 và các Hội nghị Cấp cao liên quan diễn ra tại Kuala Lumpur, Malaysia ngày 27-10. Ảnh: TTXVN

Chấm dứt suy nghĩ đối ngoại là việc riêng

Với quan điểm chỉ đạo mới, “đối ngoại, hội nhập quốc tế” được xác định là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, toàn xã hội. Chúng ta cần kết nối được ba trụ cột chính là đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân thành một thể thống nhất.

Trong đó, đối ngoại Đảng giữ vai trò định hướng chiến lược và tạo dựng lòng tin chính trị ở cấp cao nhất. Đối ngoại Nhà nước giữ vai trò chủ lực, chuyên nghiệp trên các diễn đàn song phương và đa phương. Đối ngoại nhân dân, bao gồm ngoại giao của các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng người Việt Nam, phải trở thành những cánh tay nối dài để lan tỏa sức mạnh mềm, bảo vệ lợi ích quốc gia.

Lẽ dĩ nhiên, quan điểm chỉ đạo mới phải đi cùng với một cơ chế mới, một sự thay đổi mang tính cách mạng đối với các cấp, các ngành.

Về khía cạnh tư duy, phải chấm dứt lối suy nghĩ coi đối ngoại là việc riêng của ngành ngoại giao, phá vỡ các “lô cốt” làm khu biệt, giới hạn phạm vi thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Từ đó, nâng cao năng lực hội nhập, xây dựng văn hóa đối ngoại trong quản lý, điều hành, sản xuất, kinh doanh và trong đời sống xã hội.

Về con người, cần xây dựng một đội ngũ cán bộ đa nhiệm, có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, tham gia các hoạt động đối ngoại. Và về mặt pháp lý, cần tiếp tục tham mưu với Đảng, Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để tương thích với các cam kết quốc tế nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia, cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, chủ động tham gia, góp phần xây dựng và định hình các luật chơi, các chuẩn mực quốc tế mới.

Nhìn từ góc độ phát triển, việc nâng tầm “đối ngoại, hội nhập quốc tế” là một cú hích chủ động, tạo động lực to lớn cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Khi đối ngoại được coi là nhiệm vụ trọng yếu, nó sẽ mở ra những không gian phát triển mới bao gồm kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa.

Chúng ta cũng sẽ từ vị thế tham gia chuyển sang dẫn dắt, chủ động tiếp cận tri thức, nguồn lực, công nghệ và thị trường toàn cầu, tham gia vào các chuỗi cung ứng chiến lược; từ một quốc gia tiếp nhận thành một đối tác chủ động trong nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ, lan tỏa văn hóa Việt Nam.

 Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của Tổng Thư ký tới Việt Nam đồng thời dự Lễ mở ký và Hội nghị cấp cao Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội). Ảnh: QH

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của Tổng Thư ký tới Việt Nam đồng thời dự Lễ mở ký và Hội nghị cấp cao Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội). Ảnh: QH

Ba nội dung then chốt

Trong giai đoạn tới, một nền ngoại giao chủ động, sáng tạo, được hậu thuẫn bởi toàn bộ hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp quốc gia, sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với đảm bảo quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, là bệ phóng cho một Việt Nam tự cường và thịnh vượng.

Để hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo này, thiết nghĩ cần thực hiện hiệu quả ba nội dung then chốt.

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa ba trụ cột đối ngoại nêu trên nhằm bảo đảm sự chỉ đạo xuyên suốt, hiệu quả trong triển khai đường lối đối ngoại; hoàn thiện khung pháp lý cho hội nhập quốc tế trên cơ sở kiên định giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển.

Thứ hai, tăng cường mạnh mẽ năng lực nghiên cứu và dự báo chiến lược. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, việc “biết mình, biết người” và khả năng “thấy trước để hành động trước” có ý nghĩa trọng yếu. Đầu tư thích đáng cho các cơ quan nghiên cứu chiến lược là yêu cầu cấp thiết, nhằm cung cấp cho Đảng và Nhà nước những phân tích, khuyến nghị chính sách đúng đắn, kịp thời, góp phần nâng cao năng lực chủ động trong hoạch định đường lối đối ngoại và hội nhập.

Thứ ba, chủ trương chiến lược phải đi đôi với nguồn lực tương xứng, một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên chỉ có thể được triển khai hiệu quả khi được bảo đảm bằng cơ chế, ngân sách và con người phù hợp.

Bởi vậy, cần đầu tư trọng điểm để xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, đủ sức đảm đương sứ mệnh lịch sử mới; đặc biệt chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ ngoại giao - quốc phòng - an ninh có tầm nhìn, bản lĩnh chính trị, am hiểu ngoại ngữ, pháp luật quốc tế, kinh tế, an ninh, có sự nhạy bén trong giải quyết các tình huống liên quan đến đối ngoại.

Chủ động cho một chặng đường phát triển mới

Có thể nói dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định “đối ngoại, hội nhập quốc tế” là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên song hành cùng “quốc phòng, an ninh” là một quan điểm có ý nghĩa lịch sử.

Điều này không chỉ phản ánh sự trưởng thành trong tư duy lý luận của Đảng, mà còn là sự chuẩn bị chủ động của đất nước cho một chặng đường phát triển mới. Đó sẽ là chặng đường mà Việt Nam bứt phá phát triển, vừa là một thành viên tích cực, vừa là chủ thể có trách nhiệm, đóng góp ngày càng thiết thực, hiệu quả cho hòa bình, ổn định và phát triển chung của khu vực và thế giới.

TS - Thượng tá NGUYỄN QUỲNH ANH

LÊ THOA ghi

TS - Thượng tá NGUYỄN QUỲNH ANH, Trường ĐH An ninh nhân dân

Nguồn PLO: https://plo.vn/3-then-chot-trong-chien-luoc-moi-ve-doi-ngoai-hoi-nhap-quoc-te-post881398.html