4 giải pháp ngắn hạn cho phục hồi kinh tế
Chuyên gia đề xuất các gói hỗ trợ mới nên tập trung vào hai lĩnh vực là du lịch và vận tải, kho bãi.
Tác động của dịch Covid-19 tính đến hết quý I/2021
TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV trong báo cáo mới đây đánh giá so với năm 2020, ngoại trừ các ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, mức độ tác động của dịch Covid-19 đến các ngành kinh tế khác đã giảm bớt, thậm chí một số ngành đã có sự phục hồi đáng kể trong quý I/2021.
Sản lượng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ba tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước nhờ các lĩnh vực trồng trọt cây lương thực, cây lâu năm thuận lợi; lĩnh vực chăn nuôi kiểm soát tốt dịch bệnh và đặc biệt các lĩnh vực nông sản, đồ gỗ xuất khẩu có kết quả tích cực.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong khu vực này còn khó khăn với số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động vẫn còn tăng (+32% so với cùng kỳ năm trước).
Đối với lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, tuy đã có phục hồi so với quý I/2020 khi có mức tăng trưởng chung là 6,3% nhưng chưa đồng đều giữa các ngành.
Theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV, dịch vụ là khu vực phản ánh rõ nhất tác động tiêu cực từ đại dịch và sẽ cần thêm thời gian để phục hồi.
Đối với lĩnh vực du lịch vận tải, dịch bệnh diễn biến phức tạp tại một số nước, cũng như tại một số địa phương trong nước gây cản trở quá trình mở lại các đường bay quốc tế và một phần trong nước.
Từ 1/4/2021, Việt Nam mới mở cửa trở lại bốn đường bay quốc tế (đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Úc). Tuy nhiên, lượng khách du lịch quốc tế vẫn giảm mạnh 98,1% so với quý I/2020 trong khi số lượng vận tải hành khách nội địa cũng giảm 11,8%. Doanh thu ngành du lịch ba tháng đầu năm nay do đó vẫn giảm 60% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán, chỉ số giá nhóm cổ phiếu du lịch vẫn tăng 7,1% so với đầu năm do hai nguyên nhân chính.
Thứ nhất, trong quý I/2021, một số nhóm cổ phiếu trong đó có du lịch đã thu hút được dòng tiền của các nhà đầu tư trong khi giá các nhóm cổ phiếu khác đã tăng rất cao. Thứ hai, thị trường chứng khoán vẫn duy trì đà tăng, đã có biểu hiện đầu cơ nên diễn biến giá cổ phiếu của một số nhóm ngành chỉ phản ánh phần nào tác động của dịch Covid-19.
Trong khi đó, các ngành bán lẻ, kinh doanh bất động sản cho thấy xu hướng hồi phục dù chưa thực sự mạnh mẽ với mức tăng lần lượt là 5,1% và 3,6%. Lĩnh vực bất động sản có mức tăng trưởng thấp là do ảnh hưởng mạnh của Covid-19 vẫn còn tác động khá rõ tới các phân khúc như mặt bằng bán lẻ, bất động sản du lịch nghỉ dưỡng.
Trái lại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng – bảo hiểm duy trì được mức tăng trưởng khá (7,35%). Nhóm nghiên cứu nhận định kết quả này cơ bản là do chính sách điều hành chủ động và linh hoạt của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, cho phép cơ cấu lại nợ song vẫn giữ nguyên nhóm nợ và như vậy bên vay vẫn tiếp cận được vốn.
Thị trường chứng khoán có diễn biến giao dịch sôi động, cho vay ký quỹ (margin) tăng mạnh và kết quả hoạt động ngành dịch vụ chứng khoán khả quan.
Giá cổ phiếu của một số ngành như y tế, giáo dục vẫn giảm, thể hiện triển vọng của ngành còn khó khăn khi diễn biến dịch bệnh còn phức tạp, tiến trình sản xuất, phân phối và tiêm vắc xin còn bất định, hoạt động giáo dục – đào tạo còn gián đoạn và phải mất nhiều thời gian mới có thể phục hồi.
Ngoài ra, do lĩnh vực dịch vụ chịu tác động mạnh nhất bởi dịch Covid-19, nên số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vẫn tiếp tục tăng (29,8% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng chung là 28,2%); trong đó tăng mạnh nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục – đào tạo, lưu trú – ăn uống và kinh doanh bất động sản.
Bốn giải pháp ngắn hạn
TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV khuyến nghị bốn giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra.
Thứ nhất, tiếp tục phòng chống và kiểm soát dịch Covid-19 hiệu quả bởi vì làm tốt điều này cũng chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế - xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, Chính phủ cần khẩn trương rà soát, đánh giá kết quả triển khai các gói hỗ trợ năm 2020; rút ra mặt được và chưa được để làm cơ sở, tiền đề cho việc thiết kế các gói hỗ trợ tiếp theo cho đến hết năm 2021. Phạm vi hỗ trợ nên tập trung vào hai lĩnh vực chính là du lịch (gồm cả lưu trú – ăn uống) và vận tải, kho bãi.
Trước hết, nhóm nghiên cứu kiến nghị gói tài khóa khoảng 45 nghìn tỷ đồng, tương đương 0,71% GDP, gồm xem xét cho phép miễn phí công đoàn tại doanh nghiệp năm 2021; cho phép chuyển tiếp lỗ năm 2020 sang năm 2021 – 2022 (qua đó, giảm nghĩa vụ thuế tương ứng) như một số quốc gia đã làm; chính thức điều chỉnh giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 20% xuống 15 – 17% đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ năm 2021.
Bên cạnh đó, tăng cho vay qua Quỹ phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV (thông qua Quỹ phát triển DNNVV này hoặc các tổ chức tín dụng được chỉ định) cũng như tiếp tục giãn, hoãn thuế và tiền sử dụng đất cho doanh nghiệp nhưng cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện mạnh khâu hướng dẫn và đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Nhóm nghiên cứu cũng kiến nghị gói tiền tệ - tín dụng trị giá khoảng 8 nghìn tỷ đồng (tương đương 0,12% GDP), bao gồm khẩn trương hoàn thiện phương án, quy trình cho vay ưu đãi đối với lĩnh vực hàng không như đã được Quốc Hội và Chính phủ phê duyệt; tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay DNNVV; thúc đẩy gói cho vay nhà ở xã hội và Bộ xây dựng chủ trì sớm đề xuất cơ chế động lực để doanh nghiệp đầu tư phát triển nhà ở xã hội.
Cùng với đó, khuyến khích cho vay đầu tư trang thiết bị y tế, hạ tầng y tế, nghiên cứu và sản xuất vắc xin, hạ tầng viễn thông, xử lý rác thải và các lĩnh vực ưu tiên khác.
Về gói an sinh xã hội, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV đề xuất cho phép gia hạn thực hiện các gói hỗ trợ năm 2020 đến hết năm 2021 với giá trị còn lại là 36,9 nghìn tỷ đồng, khoảng 0,6% GDP.
Việc chuyển tiền cần thực hiện qua tổ chức tín dụng và tổ chức cung ứng dịch vụ mobile money nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, tiết giảm chi phí và thúc đẩy thanh toán không tiền mặt.
Đồng thời, cần hỗ trợ chi phí đào tạo nghề cho lao động chuyển nghề do mất hay thay đổi việc làm, nâng cao tay nghề để có thể tận dụng cơ hội dịch chuyển chuỗi sản xuất.
Quy mô chương trình dự kiến khoảng 3 nghìn tỷ đồng/năm (0,05% GDP), trong đó 50% từ ngân sách Trung ương và từ ngân sách địa phương, 50% từ đóng góp của các doanh nghiệp hưởng lợi từ lao động được đào tạo này.
Thứ ba, tiếp tục phối hợp với các tổ chức quốc tế và các tổ chức sản xuất vaccine để sớm có đủ lượng vắc xin cho Việt Nam. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền về sự cần thiết của việc tiêm vắc xin ngừa Covid-19 để người dân yên tâm thực hiện; thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, sản xuất vắc xin tại Việt Nam.
Thứ tư, nhất quán thực hiện các mục tiêu, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ. Theo đó, cần có rà soát, cập nhật và đôn đốc tiến độ thực hiện của các bộ, ngành, địa phương; và có điều chỉnh kịp thời.
Nguồn Nhà Quản Trị: http://theleader.vn/4-giai-phap-ngan-han-cho-phuc-hoi-kinh-te-1618459739425.htm