45 năm giải phóng miền Nam: Nhớ một người viết sử Biệt động Sài Gòn
Năm 1981, khi tôi mang ba-lô về Phòng Lịch sử quân sự - Quân khu 7 thì ông đã có mặt ở đó. Cuộc kháng chiến chống xâm lược kéo dài 30 năm vừa khép lại, nhu cầu tổng kết chiến tranh, biên soạn lịch sử, rút ra những bài học để vận dụng vào hoàn cảnh mới đặt ra cấp thiết. Cơ quan tôi có rất nhiều sĩ quan cao cấp từ các chiến trường trở về, đủ các lĩnh vực binh chủng Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật...
Ông từng là Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn - Gia Định kiêm Chỉ huy trưởng lực lượng Biệt động Sài Gòn (BĐSG) - đại tá Nguyễn Đức Hùng (tức Tư Chu) và còn một bí danh khác nữa mà bây giờ người ta ít biết, đó là Ba Tam. Nguyễn Đức Hùng, hay Tư Chu, hay Ba Tam là một, nhưng chúng tôi vẫn thích gọi ông là Tư Chu nhiều hơn, cái bí danh gắn liền với lịch sử BĐSG trong kháng chiến chống Mỹ.
Thời kỳ chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), TP. Sài Gòn là thủ phủ của chính phủ ngụy quyền, nơi cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đặt "tổng hành dinh" với chế độ bảo vệ đặc biệt nghiêm ngặt. Thực hành đấu tranh vũ trang ở nội thành Sài Gòn, vì thế, không thể sử dụng lực lượng vũ trang (LLVT) thông thường như ở các chiến trường khác, mà đòi hỏi một lực lượng được tổ chức đặc biệt tinh gọn, có chất lượng chiến đấu cao, nghệ thuật chỉ huy và thực hành tác chiến tài trí, dũng cảm, hệ thống tổ chức ém giấu lực lượng và cung cấp hậu cần kỹ thuật công phu. Đã từng có một lực lượng như thế ở Sài Gòn: Biệt động!
Lực lượng BĐSG ra đời trên cơ sở các đội tự vệ chiến đấu được thành lập ngay sau ngày Nam bộ kháng chiến. Đó là những đơn vị vũ trang đặc biệt hoạt động ngay trong nội đô, dưới các tổ chức: ban trinh sát, ban hành động, đội cảm tử, đội phá hoại, đội trừ gian, ám sát... Họ vừa làm nhiệm vụ tác chiến tiêu diệt địch, vừa làm trinh sát, liên lạc, phát động quần chúng, gầy dựng cơ sở. Mỗi người đều có nghề nghiệp ổn định để có điều kiện sinh sống và dễ bề che mắt địch.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các đơn vị nêu trên tồn tại, chiến đấu như LLVT chủ yếu trong nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Hoạt độ ng củ ahọ đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị diễn ra sôi nổi, liên tục, làm rúng động hệ thống quân viễn chinh thực dân và tay sai ngay tại sào huyệt của nó. Đó là các trận đánh diệt bọn ác ôn phản động như trùm mật thám Bazin, chủ bút báo Phục Hưng Hiền Sĩ, tác vụ tấn công kho đạn Thị Nghè, sân bay Tân Sơn Nhất, kho bom Phú Thọ Hòa, các trận đánh thủy lôi trên sông Lòng Tàu - Rừng Sác cùng những gương hy sinh anh dũ ng như Nguyễn Đình Chính, Lan Mê Linh...
Bước vào kháng chiến chống Mỹ, các lực lượng chính trị nội thành được tập hợp lại, tổ chức thành các cánh (theo từng khu vực địa phương) và các khối (theo từng ngành, giới). Từ đó, tổ chức vũ trang gồm các tổ tự vệ và đội biệt động được tái lập. Các đội biệt động này ngày càng được xây dựng, phát triển theo hướng chuyên môn hóa, lực lượng trực tiếp chiến đấu gồm các đội, tổ, nhóm, hoạt động độc lập hoặc phối hợp trong tác chiến. Lực lượng công tác bảo đảm gồm những cán bộ và gia đình cơ sở được tổ chức từ nội thành ra vùng ven và các tỉnh, bố trí thành nhiều tuyến với hệ thống hành lang có các điểm nút, bàn đạp, căn cứ.
Hoạt động trên hệ thống hành lang này là đội ngũ giao liên công khai, bán công khai và bí mật làm nhiệm vụ chuyển tin, đưa đón bảo vệ cán bộ, vận chuyển vũ khí, tài chính... Tồn tại và hoạt động trong lòng quần chúng ở nội đô, với phương châm lợi dụng sơ hở của địch, lấy ít đánh nhiều, diệt nhanh rút gọn, với lối đánh độc đáo biến hóa, bí mật bất ngờ, luồn sâu đánh hiểm, với hành động mưu trí quả cảm, xuất quỷ nhập thần, lực lượng biệt động đã chiến đấu có hiệu quả, trở thành nỗi kinh hoàng của Mỹ - ngụy.
Lịch sử BĐSG gắn liền với những chiến công mà ý nghĩa của nó đã vượt khỏi phạm vi một trận đánh thông thường tại các mục tiêu như rạp chiếu bóng Kinh Đô, tàu Card, cầu Công Lý, khách sạn Brink, khách sạn Caraven, cảng Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, rồi dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ...
Trong những năm 80 của thế kỷ trước, LLVT Quân khu 7 đang tập trung dốc mọi nỗ lực cho cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch tại nội địa và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, giúp đất nước Chùa tháp khắc phục hậu quả của chế độ diệt chủng, xây dựng hệ thống chính trị, phục hồi kinh tế, chiến đấu truy quét tàn quân Pol Pot. Công việc lịch sử quân sự tập trung vào các đề tài tổng kết chung 2 cuộc kháng chiến. Ông Tư Chu xin chuyển ngành, về làm ở Tổng cục Cao su Việt Nam. Ở đó, ông vẫn thỉnh thoảng gọi điện thoại cho tôi bình luận, khen chê những bài báo, cuốn sách, bộ phim có liên quan đến BĐSG.
Một ngày cuối năm 1998, ông gọi điện cho tôi hỏi địa chỉ nhà riêng để gửi cuốn sách ông vừa viết. Tôi ngỡ ngàng cầm cuốn Biệt động Sài Gòn do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành và biết sau khi nghỉ hưu, phát hiện bị bạo bệnh, ông đã âm thầm khẩn trương sưu tầm tư liệu, viết cuốn sách trong 3 năm, cuốn sách mà theo ông, chỉ những gì được viết trong đó mới thực sự đúng với lịch sử BĐSG.
Rồi giữa năm 2002, ông gọi điện rủ tôi đến nhà. Ông vừa xuất viện và người cũng yếu đi nhiều. Ông đưa cho tôi bản thảo Tìm hiểu về lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định trong hai thời kỳ kháng chiến, giải phóng dân tộc, đề nghị tôi sửa chữa hoàn chỉnh và liên hệ nơi xuất bản. Bản thảo viết tay, gạch xóa nhiều chỗ. Tôi hứa với ông sẽ đọc, chú khảo, sắp xếp và biên tập lại cho ra một công trình nghiên cứu. Nhưng do công việc ở cơ quan quá bận, tôi chưa làm được gì nhiều thì bỗng một hôm, khoảng giữa năm 2010, ông gửi cho tôi cuốn Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), do Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính ấn hành. Tôi đọc và nhận ra đó là cuốn sách được sửa lại từ bản thảo tổng kết kinh nghiệm ông đã nhờ tôi sửa từ nhiều năm trước. Ông gọi điện bảo: "Cậu làm chậm quá, tôi sắp chết rồi nên phải tranh thủ sửa chữa và cho xuất bản".
Trong số rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học và tác phẩm nghệ thuật, hồi ký nói về BĐSG, hai cuốn sách của đại tá Nguyễn Đức Hùng (một về lịch sử BĐSG, một tổng kết kinh nghiệm về xây dựng và hoạt động của lực lượng này) là hai công trình nghiên cứu chuyên khảo đáng được trân trọng. Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng việc chép lại đoạn sau đây của ông đăng trong lời nói đầu cuốn Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975):
"Điều tôi mong muốn thiết tha là những kinh nghiệ mphong phu vê xây dự ng va chiế nđấu của lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định trong hai thời kỳ kháng chiến cần được các cơ quan có trách nhiệm tổ chức một cách đầy đủ, chính xác, trên cơ sở phát huy trí tuệ của các nhân chứng và các nhà khoa học, nhằm làm sáng tỏ bước phát triển mới của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, để lại những bài học bổ ích cho các thế hệ mai sau".
Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/tin-chinh/nho-mot-nguoi-viet-su-biet-dong-sai-gon_91633.html