5 điểm mới của của Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi)
Tại họp báo chuyên đề 'Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ số 42/2019/QH14 và các văn bản quy định chi tiết thi hành', đại diện Bộ Tài chính đã thông tin về một số điểm mới của Luật.
Không hạn chế quyền tự do kinh doanh
Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng về năng lực và điều kiện cung cấp, Luật cho phép tất cả các tổ chức có tư cách pháp nhân đáp ứng điều kiện có thể thực hiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Cá nhân được cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm độc lập.
Cá nhân không bị hạn chế quyền đầu tư, kinh doanh đối với 4 dịch vụ phụ trợ bảo hiểm còn lại, có thể thực hiện thông qua tổ chức dưới các hình thức như là chủ đầu tư, tham gia góp vốn thành lập các tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, là nhân viên của các tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.
Các tổ chức không có tư cách pháp nhân cũng không bị hạn chế quyền đầu tư, kinh doanh, được thực hiện dưới tư cách cá nhân như đã nêu ở trên.
Không quy định điều kiện kinhdoanh
Để đảm bảo chất lượng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, trách nhiệm của bên cung cấp dịch vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, cần phải được bảo đảm bằng các điều kiện hoạt động cụ thể.
Nội dung của Luật thể hiện việc chuẩn hóa các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trên tinh thần mở cửa, nhưng có sự kiểm soát bằng điều kiện năng lực chuyên môn.
Luật không quy định điều kiện về đăng ký, cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp mà chỉ đưa ra điều kiện để làm cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện hậu kiểm.
Quy định này phù hợp với chủ trương đổi mới trong phương thức quản lý nhà nước, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, giúp doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền lợi của khách hàng tham gia bảo hiểm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Đưa ra quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
Nhằm phát triển thị trường dịch vụ phụ trợ bảo hiểm một cách chuyên nghiệp và bài bản, bảo đảm an toàn tài chính đối với thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích của người tham gia bảo hiểm, chất lượng việc cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới tại Việt Nam của cá nhân, tổ chức nước ngoài, Luật và Nghị định đã quy định tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải xây dựng, ban hành tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện tiêu chuẩn lựa chọn, sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, đối với cả đối tượng cung cấp trong nước và nước ngoài.
Không phân biệt nhà đầu tư
Điều này sẽ tạo môi trường pháp lý bình đẳng, ổn định cho nhà đầu tư nước ngoài hoạt động, giúp nâng cao chất lượng của dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong nước, đáp ứng nguyên tắc Đối xử Quốc gia (NT) trong Hiệp định CPTPP. Việc cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới được quy định tại Luật và quy định chi tiết tại Nghị định số 80/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Quy định điều kiện, tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được áp dụng chung cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Quản lý và giám sát phù hợp
Cơ chế quản lý, giám sát hoạt động cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được quy định tại khoản 10 Điều 1 Luật số 42/2019/QH14, trên tinh thần không quy định về cấp phép mà chỉ thực hiện hậu kiểm.
Nội dung quản lý, giám sát bao gồm: việc đáp ứng về điều kiện, nguyên tắc, trách nhiệm khi cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực phụ trợ, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phụ trợ bảo hiểm. Nội dung cụ thể về quản lý, giám sát dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được quy định tại khoản 16 Điều 1 Nghị định số 80/2019/NĐ-CP của Chính phủ, bao gồm:
a). Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: giám sát thông qua công tác tiền kiểm (cấp phép) và hậu kiểm (giám sát hoạt động tài chính, nghiệp vụ, quản trị rủi ro, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính).
b). Đối với tổ chức khác cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm: giám sát thông qua công tác hậu kiểm (chế độ báo cáo, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính).
c). Đối với cá nhân: quản lý việc thi, cấp, công nhận chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm; nội dung chương trình đào tạo.
d). Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài: Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý, giám sát thông qua tiền kiểm (qua phương thức cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, hoặc hợp tác với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam; kiểm soát về điều kiện, tiêu chuẩn) và hậu kiểm (chế độ báo cáo; thanh tra, kiểm tra việc sử dụng của các tổ chức cung cấp trong nước, xử lý vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài).