50 năm đất nước thống nhất: Việt Nam trên đà 'đổi mới 2.0'
Công cuộc Đổi mới 1986 sau khi đất nước thống nhất từ năm 1975 đã mang lại rất nhiều thành tựu và đất nước đang tiến vào 'kỷ nguyên mới' với những thay đổi mạnh mẽ, có thể nói là 'đổi mới 2.0'.
Xuân 2025, một mùa xuân đặc biệt gợi nhớ đến sự kiện cách đây tròn nửa thế kỷ, Việt Nam thống nhất, Nam - Bắc một nhà, nối liền một dải non sông (30-4-1975). TS - nhà báo Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, nhận xét: Trong suốt 50 năm kể từ ngày Việt Nam thống nhất, dấu ấn đậm nhất chính là công cuộc Đổi mới đất nước từ năm 1986. Cùng với việc đất nước đang tiến vào “kỷ nguyên mới” - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta đang tiến vào công cuộc đổi mới lần 2, hay “đổi mới 2.0”.
50 năm đất nước thống nhất, 40 năm đổi mới
. Phóng viên: Kính thưa TS - nhà báo Nhị Lê, 50 năm kể từ khi Việt Nam thống nhất, nếu điểm lại những điểm nhấn quan trọng nhất của đất nước, ông sẽ nghĩ ngay đến những sự kiện, bước ngoặt, chuyển biến ấn tượng nào?
+ TS - nhà báo Nhị Lê: Năm 2025 không chỉ đánh dấu 50 năm đất nước thống nhất, mà cũng là năm bản lề trước khi kỷ niệm 40 năm Việt Nam bước vào giai đoạn Đổi mới. Ý nghĩa của sự kiện 30-4-1975 có lẽ đã được nhiều lãnh đạo đất nước, chuyên gia, học giả, nhà khoa học, Nhân dân và cả báo chí trong nước và quốc tế dùng rất nhiều giấy mực để mô tả.
Nói về sự kiện thống nhất đất nước, tôi khẳng định rằng: Nền độc lập, tự chủ của Tổ quốc là bất khả xâm phạm! Đất nước Việt Nam thống nhất, chiến thắng trước mọi thế lực xâm lăng là lẽ tự nhiên, thuận với lòng người, luật pháp và đạo lý quốc tế. Càng có nhiều nguy cơ, đe dọa, thăng trầm hay thậm chí đứng trước những kẻ thù mạnh nhất, đất nước ta càng có nhu cầu mãnh liệt về độc lập, tự do và tự chủ; càng sẵn sàng hy sinh tất cả, bằng mọi giá và mọi quyết tâm giữ gìn bằng được nền độc lập, tự chủ và tự do vô giá ấy. Không chỉ sự kiện thống nhất vào mùa xuân năm 1975, mà lịch sử ngàn năm của đất nước, dân tộc ta đều cho thấy điều ấy.
Trong không khí kỷ niệm 50 năm ngày đất nước thống nhất, tôi cho rằng chúng ta nên tập trung đào sâu bước ngoặt 1986, khi đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức không chỉ từ bối cảnh quốc tế (Chiến tranh lạnh đang dần vào hồi kết, tạo ra những biến động lớn) mà còn từ những “bài toán” kinh tế - xã hội, đói nghèo, tụt hậu trong nước. Trong bối cảnh ấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã dũng cảm, nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới chưa từng có tiền lệ, chưa hề có khuôn mẫu.
Đó là nền tảng, cùng với việc hiện thực hóa chủ trương, đường lối đổi mới qua các thời kỳ với sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý, mà “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (như lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng), đồng thời tiếp tục bước vào “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” (như lời Tổng Bí thư Tô Lâm).
Dũng cảm đi “con đường chưa ai đi qua”
. Như ông vừa chia sẻ, trong công cuộc đổi mới, chúng ta đã dũng cảm. Xin ông có thể giải thích hơn sự dũng cảm ấy?
+ Việt Nam những năm đầu 1980 gặp rất nhiều khó khăn. Chúng ta vẫn là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị nhiều nước cô lập và cấm vận; chịu tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt, tỉ lệ lạm phát có thời điểm lên đến ba con số, đời sống của hầu hết người dân rất khó khăn, có đến khoảng 3/4 dân số sống ở mức nghèo khổ.
Tôi tin chắc đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, có những người vẫn còn giữ hoặc sưu tầm tem phiếu, sổ gạo từ thời bao cấp. Khi đó, chúng ta mong cầu đủ thứ, từ những điều đơn giản như bát cơm đầy, cơm có thịt, cây bút chì, quyển vở trắng đến những điều xa xỉ hơn như cái xe đạp, cái bàn là… Bạn biết đấy, chúng ta đứng trước bài toán “mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường” mà đặt trong bối cảnh bấy giờ và nếu nhìn rộng ra sau này khi nhóm các nước Đông Âu tan rã thì sẽ thấy Đảng và Nhà nước ta ở thời điểm ấy đứng trước bài toán sống còn lớn đến từng nào.
Tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: “Đó là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử mà chưa một ai đi qua”. Thậm chí theo tôi, còn chưa từng (dám) nghĩ tới. Đổi mới thật sự là một cuộc cách mạng về tư tưởng, mang tính sinh tử chứ không đơn thuần là những khát vọng được tô hồng. Bất chấp có người nói rằng tư tưởng là chuyện viển vông nhưng lịch sử loài người cho thấy điều ngược lại, có tư tưởng đổi mới thì đất nước mới có thể được dẫn dắt đi đến những thể chế, chính sách và quyết định đúng đắn. Gần 40 năm trước, Đảng và Nhà nước ta đã làm được một cuộc đại cách mạng về tư tưởng, đó chính là dũng cảm.
Dũng cảm còn ở chỗ “nói được, làm được”. Nghĩ ra đã khó, quyết định càng khó và triển khai một cách rộng rãi từ Nam chí Bắc càng khó. Phải vượt qua những khác biệt về đặc thù địa lý, kinh tế - xã hội, văn hóa, kỳ vọng… để hiện thực hóa các chính sách cụ thể vào đời sống người dân cả nước chưa bao giờ là điều dễ dàng. Chưa kể khi đổi mới, đất nước phải đối diện với những khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, thực dụng và cơ hội đủ loại. Dũng cảm còn ở chỗ chúng ta cũng phải nhìn nhận hàng loạt sự kiện, lý thuyết bàn định về sự cải cách, canh tân trong lịch sử đất nước để rút ra những bài học xương máu, từ những cuộc cải cách của Hồ Quý Ly (thế kỷ 15), của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch (thế kỷ 19) đến những dự án canh tân của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các chí sĩ yêu nước (đầu thế kỷ 20).
Tiếp tục “lấy dân làm gốc”
. Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây nhiều lần nhắc đến “kỷ nguyên vươn mình”. Giai đoạn này sẽ kế thừa những di sản nào trong suốt 50 năm từ ngày thống nhất, gần 40 năm từ khi đổi mới?
+ Tôi nghĩ kế thừa cốt lõi nhất nằm ở bốn chữ “lấy dân làm gốc”. Lòng dân, theo tôi, chính là quốc bảo của Việt Nam. Gần 40 năm đổi mới, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi, cũng huy động được hết các sức mạnh về tài lực, vật lực. Tuy nhiên, nếu nhìn lại thì những lúc thiếu thốn nhất, gian nan nhất, nếu “khoan thư sức dân” thì mọi thách thức đều được chinh phục.
Chúng ta giữ được sự độc lập, tự chủ như hiện nay; xây dựng được nền móng xã hội, thể chế vững chãi để phát triển nền chính trị như hiện nay; hội nhập một cách toàn diện, sâu rộng như hiện nay đều từ Dân mà ra. Bởi lẽ nước ta là do Nhân dân là chủ và làm chủ! Có Nhân dân là có tất cả; do đó, toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước đều buộc phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
Một điều nữa mà tôi cho rằng Việt Nam cũng cần kế thừa, phát huy và phát triển đó là chủ thuyết đổi mới mà chúng ta theo đuổi suốt gần bốn thập niên qua. Về mặt lý luận thì nội dung chi tiết của chủ thuyết đổi mới rất phức tạp nhưng nội hàm chính là giữ vững các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc hoạch định đường lối chính trị phù hợp, góp phần nhận thức đúng đắn và sâu sắc về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Và thúc đẩy “đổi mới 2.0”
. Liên quan đến câu chuyện đổi mới, chỉ trong bài phát biểu tại phiên khai mạc Quốc hội ngày 21-10, Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc đến từ “đổi mới” đến 11 lần. Thưa ông, nhiều chuyên gia cho rằng dư địa phát triển đất nước từ công cuộc Đổi mới 1986 đến nay đã giảm đáng kể. Trong “kỷ nguyên vươn mình”, đâu sẽ là những câu chuyện đổi mới mang tính “thực tiễn nóng bỏng” mà “Nhân dân mong chờ và kỳ vọng”?
+ Tôi nghĩ “kỷ nguyên vươn mình” là một lời hiệu triệu cả dân tộc cùng đổi mới, có thể nói là đổi mới lần 2, hay “đổi mới 2.0”. Lần đổi mới này cũng quyết liệt, sáng tạo, hứa hẹn tạo đột phá lớn đặt trong bối cảnh thế giới đã “phẳng” và sự thống trị của công nghệ mới mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Tôi lấy ví dụ, các thuật ngữ trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML) đã xuất hiện từ cuối những năm 1950 nhưng chủ yếu được quan tâm trong các tiểu thuyết trinh thám, các bộ phim khoa học viễn tưởng. Còn bây giờ, AI, ML xuất hiện trong đời sống, sản xuất, sinh hoạt, kinh doanh hằng ngày, chi phối mạnh mẽ cách quản trị các nguồn lực như thời gian, con người, tiền bạc, tài sản, đồng thời ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, hiệu suất công việc.
Ngoài ra, bối cảnh thế giới, dòng chảy của tài sản, tài chính, công nghệ, sự hiện diện của các rào cản thuế quan hay phi thuế quan, sự xuất hiện của các rủi ro về an ninh truyền thống, phi truyền thống, quan hệ của Việt Nam với các nước… đều đã có những thay đổi rất lớn trong suốt 40 năm qua.
Trong bối cảnh đó, tôi nghĩ đổi mới đầu tiên chính là phải đoạn tuyệt tư duy “chương hồi” kiểu “quả đấm thép” về kinh tế. Không thể phát triển theo hướng dàn trải, nghề nào cũng làm, ngành nào cũng là mũi nhọn. Phải có giải pháp, lộ trình thực hiện mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam sẽ nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực châu Á về sản xuất dịch vụ thông minh, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; tức là chúng ta hướng đến năng suất lao động cao, hiện đại, có năng lực làm chủ công nghệ.
Tuy nhiên, tôi cũng muốn lưu ý rằng đổi mới là một quá trình chuyển tiếp và kế thừa, chứ không phải nóng vội, phủ định giai đoạn trước. Nơi nào phù hợp phát triển công nghiệp thì phải công nghiệp hóa đến chín muồi; nơi nào phù hợp nông nghiệp thì phát triển nông nghiệp thông minh, sản phẩm chất lượng cao… chứ không phải tất cả đổ xô làm dịch vụ hay các lĩnh vực được báo chí - truyền thông, dư luận tâng bốc, kỳ vọng quá đà.
Thứ hai, phải tiếp tục thúc đẩy công cuộc cải cách, đổi mới thể chế. Thể chế có tốt thì mới dẫn dắt các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội phát triển được. Ngoài việc khuyến khích cán bộ sáng tạo, dám nghĩ, dám làm những cách làm mới thì cần tiếp tục công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực, lệch lạc và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ. Khi nào mà người dân, doanh nghiệp hài lòng với nền công vụ; những cán bộ giỏi có đất dụng võ; đảng viên, công chức, viên chức không nên, không cần và không muốn tham nhũng thì khi đó đất nước sẽ phát triển bền vững.
. Xin cảm ơn ông.
Tình người Nam - Bắc một lòng một dạ
Từ mùa xuân 1975 đến nay, đất nước thăng trầm nhiều giai đoạn. Chia cắt hai miền Nam - Bắc trong mấy mươi năm do chiến tranh để lại những vết thương nhất định nhưng chủ yếu về tài lực, của cải, hạ tầng, địa lý. Duy chỉ có tình người là chưa bao giờ thay đổi.
Tôi đơn cử, đại dịch COVID-19 ở TP.HCM và nhiều tỉnh miền Nam bùng phát giai đoạn 2021, khi ấy cả nước hướng về miền Nam, từ những lô vaccine đến những đoàn nhân viên tình nguyện. Đến đợt bão số 3 vừa rồi, miền Bắc tan hoang vì mưa gió, ngập lụt thì nối đuôi nhau từng đoàn người, đoàn xe thực phẩm, quần áo, nước sạch và cả tài lực từ mọi miền đổ ra để đồng bào sớm vượt qua thiên tai. Trong chiến tranh, tình cảm dân tộc là động lực để cha ông chúng ta hy sinh xương máu giành độc lập, tự chủ, thống nhất và thời bình thì từ Bắc chí Nam vẫn đồng hành, che chở, dìu dắt nhau, nhất là những lúc khó khăn.
Nguồn PLO: https://plo.vn/50-nam-dat-nuoc-thong-nhat-viet-nam-tren-da-doi-moi-20-post829712.html