6 năm sau ly hôn thì phát hiện 'nuôi con tu hú', người đàn ông được tòa hủy án phần con chung
Sau khi hoàn tất việc thuận tình ly hôn và thỏa thuận về con chung, người chồng phát hiện con chung không cùng huyết thống nên đề nghị xem xét theo thủ tục tái thẩm.
TAND Cấp cao tại TP.HCM vừa công bố quyết định tái thẩm về việc ly hôn giữa nguyên đơn là bà TBT (31 tuổi) và ông NVG (39 tuổi, cùng ngụ Vĩnh Long).
Theo đó, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM đã tuyên hủy quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự về phần con chung; giao hồ sơ cho TAND huyện Trà Ôn để xét xử lại theo đúng quy định pháp luật.
Theo nội dung vụ việc, bà T và ông G đăng ký kết hôn năm 2015, có 1 con chung. Ngày 21-8-2017, TAND huyện Trà Ôn đã ban hành quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa bà T và ông G; bà T sẽ trực tiếp nuôi con chung; ông G có nghĩa vụ cấp dưỡng, có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung...
Đến ngày 16-7-2023, ông G có đơn đề nghị xem xét lại quyết định trên theo thủ tục tái thẩm bởi kết quả phân tích ADN thể hiện người con chung không phải con đẻ của ông.
Ngày 25-11-2024, Chánh án TAND Cấp cao tại TP.HCM đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TP.HCM xét xử tái thẩm theo hướng hủy một phần quyết định sơ thẩm nêu trên về phần con chung...
Tại phiên tái thẩm, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM nhận định: Theo Kết quả phân tích ADN huyết thống ngày 29-7-2023 do ông G cung cấp thì mẫu ADN của ông và mẫu ADN của cháu H không cùng huyết thống cha - con. Đây là tình tiết mới (khoản 1 Điều 352 của BLTTDS) mà khi giải quyết vụ án thì tòa và đương sự không biết nên tòa mới căn cứ giấy khai sinh của cháu H cũng như lời trình bày của các đương sự để ghi nhận cháu H là con chung của họ.
Từ những phân tích trên, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TP.HCM đã chấp nhận kháng nghị, tuyên hủy quyết định về phần con chung để TAND huyện Trà Ôn giải quyết lại phần bị hủy...
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Căn cứ Điều 351 BLTTDS, tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà tòa án, các đương sự không biết được khi tòa án ra bản án, quyết định đó.
Theo Điều 352 BLTTDS, bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ như:
- Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
- Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật…
- Bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ...
Theo Điều 354 BLTTDS, Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao và tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.
Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Luật sư NGUYỄN VĂN HIẾU, Đoàn Luật sư TP.HCM