8 thành quả chính trong 30 năm phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam
Theo báo cáo của UNAIDS, trong khu vực, Việt Nam là nước có số ước tính ca nhiễm mới HIV năm 2018 giảm lớn nhất (64%) so với năm 2010. Số ca nhiễm mới HIV của Việt Nam năm 2018 chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng số ca nhiễm mới HIV ước tính cho khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
1. Hoàn thiện hệ thống văn bản
Trong 30 năm qua, công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động phòng, chống HIV/AIDS luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi trọng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng sớm được ban hành, cập nhật, hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển khai hiệu quả công tác phòng, chống HIV/AIDS.
2. Tổ chức mạng lưới phòng, chống AIDS phát triển, thay đổi phù hợp và đáp ứng tốt các nhiệm vụ theo từng thời kỳ
Thành lập, phát triển và kiện toàn của UBQG PC AIDS và PC Ma túy, mại dâm giúp tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp liên ngành trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Thành lập Cục Phòng, chống HIV/AIDS và Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS các tỉnh, thành phố.
3. Hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV ngày càng đa dạng và hiệu quả
Đồng thời với việc tiếp tục triển khai cung cấp bơm kim tiêm miễn phí tại 52 tỉnh, phát bao cao su miễn phí tại 55 tỉnh, điều thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone ở 63 tỉnh/thành phố cho hơn 52.000 bệnh nhân, ba năm gần đây triển khai điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) cho hơn 13,000 khách hàng, chủ yếu là MSM.
4. Tư vấn xét nghiệm HIV được triển khai đa dạng, đảm bảo tính sẵn có và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ cho các nhóm có hành vi nguy cơ cao
Hiện tại có hơn 1.200 phòng xét nghiệm sàng lọc, bao phủ 100% tuyến huyện. Có 170 phòng xét nghiệm khẳng định HIV, bao phủ 100% tỉnh/thành phố. Xét nghiệm khẳng định HIV được mở rộng xuống tuyến huyện, hết năm 2018 đã có 55 phòng xét nghiệm khẳng định HIV tuyến huyện.
Hệ thống phòng xét nghiệm khẳng định HIV cũng đang được triển khai thí điểm sử dụng 3 test nhanh tại các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa.
5. Điều trị ARV ngày càng được mở rộng, đạt chất lượng hàng đầu thế giới
Hệ thống các CSĐT HIV/AIDS đã được thiết lập và mở rộng nhanh chóng để mở rộng độ bao phủ điều trị, tạo điều kiện thuận lợi cho người nhiễm HIV tiếp cận dịch vụ điều trị và duy trì điều trị lâu dài, hiện tại có 446 phòng OPC trên toàn quốc, trong đó ngoài phòng OPC tại cơ sở y tế còn có cơ sở điều trị ARV tại trại giam; trung tâm 06, cơ sở tôn giáo và một số phòng khám tư nhân.
Số lượng BN được điều trị tăng nhanh qua các năm: Đến 30/9/2020, đang điều trị cho 150.984 bệnh nhân HIV (76% số người biết tình trạng nhiễm HIV của mình được tiếp cận với chương trình điều trị ARV) tại 446 cơ sở điều trị và 652 cơ sở cấp phát thuốc.
Nhiều mô hình điều trị đã được triển khai nhằm nâng cao hiệu quả điều trị như mô hình kết hợp vừa điều trị thuốc kháng HIV, vừa điều trị MMT, điều trị phối hợp Lao/HIV, xét nghiệm và điều trị, cung cấp các can thiệp dự phòng tại CSĐT HIV; Mô hình Treatment 2.0; Điều trị nhanh, điều trị trong ngày và cấp phát thuốc nhiều tháng; Mô hình điều trị cho cặp bạn tình dị nhiễm.
Kết quả theo dõi chất lượng điều trị cho thấy: Tỷ lệ tuân thủ ARV sau 12 tháng là 88%. Tải lượng vi rút dưới ngưỡng ức chế (<1000):> 96% (VN là 1 trong 4 nước gồm Đức, Thụy Sĩ, Anh đạt chỉ tiêu này trên toàn cầu).
6. Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đạt hiệu quả cao
Số trẻ em nhiễm HIV do lây truyền HIV từ mẹ có xu hướng liên tục giảm từ năm 2012 đến nay, tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con ở những trẻ được điều trị dự phòng bằng ARV trong 4 năm gần đây đều dưới 2,5%.
7. Cơ chế tài chính đổi mới, bền vững
Giai đoạn 2011-2020 đánh dấu việc chuyển giao dần và bền chương trình phòng, chống HIV/AIDS từ một chương trình phụ thuộc phần lớn vào các chương trình dự án quốc tế sang các nguồn lực trong nước. Quyết định số 1899/QĐ-TTg ngày 15/20/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đảm bảo tài chính cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS là văn bản có tính chất tác động đến quá trình chuyển giao chương trình phòng, chống HIV/AIDS sang các nguồn tài chính trong nước.
Quyết định 1899 không chỉ tạo căn cứ pháp lý cho việc mở rộng các giải pháp huy động nguồn ngân sách nhà nước trung ương, nguồn ngân sách địa phương, các giải pháp mở rộng chi trả của Quỹ BHYT cho điều trị HIV/AIDS mà còn đưa ra các nhóm giải pháp về huy động các nguồn xã hội hóa như thu phí dịch vụ, huy động các nguồn đóng góp của xã hội thông qua các Quỹ.
Những năm trước, chủ yếu tiền viện trợ (80%), gần đây, cơ cấu tài chính HIV/AIDS thay đổi nhanh: Viện trợ giảm từ 73% (2014) xuống 48% (2019); Tài chính trong nước tăng từ 27% lên 52% cùng kỳ (chủ yếu là NSTW, NSĐP và BHYT). Tăng nhanh tỷ lệ BN HIV/AIDS có thẻ BHYT: từ 50% (2015) lên 91% (2019).
8. Giảm số nhiễm HIV mới, tử vong
Tình hình HIV/AIDS giảm nhanh, ngày càng được kiểm soát tốt, đạt được các chỉ tiêu được giao; được cộng đồng quốc tế đánh gia là điểm sáng về phòng, chống HIV/AIDS.
Duy trì tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư dưới 0.3% theo như mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Số các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện mới từng năm có xu hướng giảm từ năm 2007 đến nay. Trong giai đoạn 2005 đến 2007, trung bình phát hiện mới được hơn 28.000 trường hợp nhiễm HIV một năm, giai đoạn 2008 đến 2012, trung bình phát hiện mới được hơn 17.000 trường hợp nhiễm HIV trong một năm và từ 2012 đến nay trung bình mỗi năm phát hiện mới 10.000 trường hợp nhiễm HIV.
Kết quả trên cho thấy việc triển khai tích cực và hiệu quả chương trình phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian qua đã giúp giảm rõ rệt số nhiễm mới HIV. Ngoài ra, chương trình cũng đã làm giảm rõ rệt số tử vong và dự phòng số trường hợp nhiễm mới HIV. Kết quả ước tính cho thấy, trong giai đoạn từ 2001 đến 2018, chương trình đã dự phòng nhiễm mới HIV được cho hơn 460.000 người, giảm tử vong được cho hơn 200.000 người.