8 trọng tâm đẩy mạnh hợp tác năng lượng giữa Việt Nam - Nhật Bản
Xác định dư địa hợp tác năng lượng giữa hai nước còn nhiều, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An chỉ ra 8 khoảng không gian khai thác, trong đó nhấn mạnh vào lĩnh vực tìm kiếm công nghệ phù hợp.
Chuyển đổi xanh và chuyển dịch năng lượng là một trong những trọng tâm hợp tác của Nhật Bản tại Việt Nam. Tại Hội thảo kinh tế cấp cao Việt Nam - Nhật Bản, ngày 7/3, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An đã có những phân tích về dư địa hợp tác lĩnh vực này giữa hai nước trong thời gian tới.
Theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, định hướng phát triển ngành năng lượng và Chương trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam trong những năm sắp tới mang tới cơ hội hợp tác rất lớn dành cho các nhà đầu tư, trong đó có các doanh nghiệp của Nhật Bản. Trong đó, các tiềm năng mà hai nước có thể xem xét trao đổi, tìm cơ hội hợp tác thông qua 8 lĩnh vực:
Thứ nhất, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh (điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, điện sinh khối, sản xuất và ứng dụng các nguồn năng lượng mới như hydro, amoniac...)
Thứ hai, chuyển đổi nhiên liệu, xử lý môi trường cho các nhà máy nhiệt điện và tua bin khí đang vận hành. Thứ ba, khai thác tiềm năng thủy điện cỡ vừa và nhỏ gắn với bảo vệ môi trường, mở rộng các dự án thủy điện hiện có, xây dựng các nhà máy thủy điện tích năng.
Thứ tư, triển khai các dự án nhiệt điện chạy khí và khí thiên nhiên hóa lỏng. Thứ năm, các giải pháp nâng cao hiệu suất, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng. Thứ sáu, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ năng lượng mới, lưu trữ năng lượng, lưu trữ carbon.
Thứ bảy, phát triển mới hệ thống lưới điện truyền tải, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống lưới điện hiện có, ứng dụng công nghệ lưới điện thông minh (Smart Grid). Thứ tám, hiện đại hóa hệ thống quản lý, điều độ hệ thống điện, nâng cao năng lực xây dựng thể chế và quản lý năng lượng trong nền kinh tế.
Lãnh đạo Bộ Công Thương khẳng định sẵn sàng cử đầu mối trao đổi với phía Nhật Bản để phối hợp, triển khai các công việc cụ thể và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp hai bên.
Theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, Nhật Bản là quốc gia có tiềm lực mạnh về khoa học - công nghệ và công nghệ năng lượng, có ngành cơ khí chế tạo phát triển, trong khi đó, Việt Nam là quốc gia có nhu cầu điện/nhu cầu năng lượng tăng nhanh và đang có kế hoạch chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ.
"Thực tế, Nhật Bản đã giúp đỡ Việt Nam một cách có hiệu quả trong phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng quan trọng từ nhiều năm. Trên cơ sở đó, tôi tin rằng, giai đoạn sắp tới, trong quá trình chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ, tiềm năng hợp tác về năng lượng của hai bên sẽ có rất nhiều”.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An
Chuyển dịch năng lượng đảm bảo tính phù hợp, bền vững
Nói thêm về chiến lược chuyển dịch năng lượng của Việt Nam, Thứ trưởng Đặng Hoàng An khẳng định, tính bền vững là định hướng xuyên suốt của Chính phủ trong thời gian tới.
Theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, năng lượng có vai trò quan trọng sống còn đối với phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội của tất cả các quốc gia. Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu COP26 được tổ chức tại Glasgow (Vương quốc Anh) vào tháng 11/2021, Việt Nam đã đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cam kết này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thực hiện các mục tiêu chuyển dịch từ nguồn năng lượng hóa thạch truyền thống sang các nguồn năng lượng xanh, sạch, giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu.
Bộ Công Thương Việt Nam đang rà soát và hoàn thiện Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch năng lượng quốc gia) và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2045 (Quy hoạch điện 8).
Kế thừa sự phát triển mạnh gần đây về phát triển năng lượng tái tạo, Chính phủ Việt Nam đang chỉ đạo sẽ tiếp tục tăng mạnh tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo (thủy điện, điện gió trên bờ và ngoài khơi, điện mặt trời, sinh khối), các loại hình năng lượng mới trong cơ cấu nguồn điện quốc gia.
Trong đó, xây dựng chiến lược phát triển và chuyển dịch năng lượng phù hợp, khả thi, bền vững, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước là nhiệm vụ có tính quan trọng bậc nhất của Việt Nam.
“Điều đặc biệt quan trọng là mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nhóm đối tượng xã hội dễ bị tổn thương, người thu nhập thấp và các đối tượng chính sách đều phải được tiếp cận và thụ hưởng lợi ích từ các chính sách phát triển năng lượng bền vững với chi phí hợp lý”, Thứ trưởng Đặng Hoàng An cho biết.
Do vậy, Thứ trưởng Bộ Công Thương nêu rõ 2 mục tiêu cao nhất trong chuyển dịch năng lượng được Việt nam đặt ra, gồm: Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong trung và dài hạn để đáp ứng các mục tiêu phát triển; đảm bảo tiếp cận năng lượng cho người dân và nền kinh tế với chi phí hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển và khả năng thực tế của Việt Nam.
“Tôi muốn lưu ý tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc hợp tác nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ năng lượng trên phạm vi toàn cầu (đặc biệt là công nghệ sản xuất điện năng quy mô lớn từ các nguồn năng lượng sơ cấp mới như Hydro, Amoniac, công nghệ lưu trữ năng lượng tiên tiến, công nghệ hấp thụ và lưu trữ CO2”, lãnh đạo Bộ Công Thương nhấn mạnh.
“Trong 3 năm trở lại đây, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh của năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió với hơn 16,5 GW công suất điện mặt trời được kết nối vào lưới điện quốc gia (24,3% công suất lắp đặt, 44% công suất tiêu thụ tối đa năm 2020), gần 4 GW điện gió trên bờ và gần bờ đã vào vận hành. Nếu tính cả 20,6 GW thủy điện, công suất lắp đặt nguồn điện từ năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay chiếm đến 54,2% công suất lắp đặt toàn quốc”.