80 năm cơ đồ nước Việt Nam ta
80 năm, từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu ách thống trị của thực dân đế quốc, Việt Nam đã mạnh mẽ vươn lên, trở thành một nước đang phát triển và đang vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Tám mươi năm trước, trong mùa thu rực rỡ ánh vàng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Từ giây phút thiêng liêng ấy, một trang sử mới chói lọi được viết bằng ý chí quật cường, bằng máu xương và khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc.
Để rồi 80 năm sau, từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu ách thống trị của thực dân đế quốc, từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã mạnh mẽ vươn lên, trở thành một đất nước đang phát triển và đang vững bước tiến vào kỷ nguyên mới với đầy đủ thế và lực, như nhận định của Đảng ta: "Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay".
Những nền tảng vững chắc
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến ngàn năm, với ý chí bất khuất, chưa bao giờ chịu cúi đầu trước bất kỳ đạo quân xâm lược nào. Trải qua biết bao thử thách hiểm nghèo, nhân dân ta luôn kiên cường giữ vững khát vọng sống trong độc lập, tự do – những giá trị thiêng liêng được hun đúc thành chân lý bất diệt: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Trong 80 năm trường "đêm đen nô lệ", phải sống trong cảnh lầm than dưới ách thống trị của thực dân là nỗi đau tột cùng, là điều không thể chấp nhận đối với một dân tộc có truyền thống quật cường. Biết bao thế hệ đã nối tiếp nhau đứng lên, không quản máu chảy, đầu rơi, bền gan đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, song tất cả đều bị nhấn chìm trong biển máu.

Độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, phồn vinh và hạnh phúc là khát vọng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Mãi đến mùa thu năm 1945, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng tháng Tám mới bùng nổ và giành thắng lợi vẻ vang, trao lại cho nhân dân ta quyền độc lập, trả lại cho dân tộc ta tên nước Việt Nam thiêng liêng. Sự ra đời của nước Việt Nam độc lập không chỉ là sự thành công to lớn của sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của đất nước, thiết lập một chính thể cộng hòa được xây dựng trên nền dân chủ, cam kết đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Sau khi đánh đổ chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm bị đô hộ, nước Việt Nam độc lập đã tiếp tục bước vào hai cuộc trường kỳ kháng chiến, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ba mươi năm chiến tranh đầy máu lửa, dân tộc ta đã viết nên bản hùng ca bất diệt, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, Bắc – Nam sum họp một nhà.
Hòa bình "ngắn chẳng tày gang", từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, Việt Nam phải tiếp tục đương đầu với 2 cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc để bảo vệ nền độc lập và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhưng có lẽ chặng đường của nước Việt Nam độc lập trong thế kỷ XX là khắc nghiệt hơn cả. Chưa có một thế kỷ nào mà trên lãnh thổ Việt Nam lại xuất hiện đồng thời nhiều đội quân xâm lược nước ngoài như thế. Chưa có một thế kỷ nào mà đất nước Việt Nam lại phải chịu nhiều hy sinh, tổn thất đến vậy. Và cũng chưa có một thế kỷ nào mà chiến thắng của Việt Nam lại trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc, quyết chiến và quyết thắng như vậy.
Và thành quả vĩ đại mà chúng ta đạt được là đã gây dựng thành công một nước Việt Nam có một chế độ chính trị hoàn toàn độc lập, có chủ quyền lãnh thổ được bảo vệ vững chắc, có quyền tự quyết con đường phát triển của mình, không bị chi phối bởi bất kỳ thế lực nào, được thừa nhận và tôn trọng bình đẳng trên trường quốc tế.
Nhấn mạnh độc lập, tự do là quyền tự nhiên, quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia, dân tộc, theo PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, khát vọng độc lập tự do và xây dựng đất nước giàu mạnh trở thành lý tưởng và mục tiêu xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng cách mạng do Người sáng lập.
"Độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, phồn vinh và hạnh phúc là khát vọng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Khát vọng đó được Đảng Cộng sản Việt Nam bồi đắp, phát triển đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh và không ngừng hiện thực hóa", PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc đánh giá.

Sau 80 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, ghi nhiều dấu ấn mang tính lịch sử.
Một thành quả có ý nghĩa quyết định, làm nên sức mạnh nội sinh và định hướng cho toàn bộ tiến trình phát triển đất nước chính là nhận thức ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trải qua thực tiễn cách mạng đầy gian nan, từ kháng chiến đến xây dựng hòa bình, từ thời kỳ bao cấp đến công cuộc Đổi mới toàn diện năm 1986, dân tộc ta đã từng bước khẳng định rằng chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với khát vọng độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc và sự phát triển phồn vinh của nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nguyên tắc "lấy dân làm gốc" không chỉ là tư tưởng xuyên suốt mà còn là thực tiễn sinh động. Nhân dân luôn là trung tâm, là chủ thể, là cội nguồn sức mạnh của mọi thắng lợi; mọi đường lối, chính sách đều vì dân và dựa vào dân.
Trên nền tảng đó, ba trụ cột vững chắc của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được hình thành và không ngừng hoàn thiện, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cú "lột xác" về diện mạo phát triển
80 năm trước, nước Việt Nam độc lập ra đời trên cơ sở một nền kinh tế tiêu điều, xác xơ. Dân số bây giờ vào khoảng 20-22 triệu người, trong đó đã có khoảng 2 triệu người (chiếm 10%) dân số chết trong trong nạn đói trong giai đoạn 1944-1945. Nền kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp-Nhật vơ vét kiệt quệ, chiến tranh tàn phá. Công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... đình đốn. Ngân khố quốc gia trống rỗng. Văn hóa giáo dục trì trệ. 90% dân số mù chữ, không biết đọc, biết viết.
80 năm sau, từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình và khẳng định vai trò trong các diễn đàn kinh tế quốc tế. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế năm 2024 như tăng trưởng kinh tế đạt 7,09%. Quy mô GDP nền kinh tế là 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 trên thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu là 786,3 tỷ USD. Tổng vốn đăng ký đầu tư FDI là 38,23 tỷ USD. Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Thu nhập bình quân đầu người đạt 4.700 USD.
Việt Nam trở thành một trong số những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới với việc ký kết, tham gia 17 hiệp định thương mại tự do, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...Đặc biệt, trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu lâm vào tình trạng suy thoái, lạm phát cao do đại dịch Covid-19, nhờ những quyết sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, Việt Nam đã nổi lên thành một điểm sáng nổi bật trên thế giới về thành tích phòng, chống dịch, phát triển kinh tế và ổn định vĩ mô.

Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế có quy mô GDP xếp thứ tư Đông Nam Á, đứng thứ 33 thế giới.
Bên cạnh kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân cũng không ngừng được nâng cao. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân được quan tâm. Mục tiêu xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngày càng được hiện thực.
Các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội ngày càng được quan tâm, coi đó là nền tảng trực tiếp của sự phát triển bền vững và là thước đo cho bản chất nhân văn của chế độ. Giáo dục và đào tạo đã trở thành quốc sách hàng đầu, không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp, mở rộng cơ hội tiếp cận tri thức cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước.
Nền y tế Việt Nam từng bước hiện đại hóa, không chỉ tập trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh mà còn chú trọng đến công tác phòng bệnh, y tế dự phòng, đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe đến gần hơn với người dân, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Song song với đó, hệ thống an sinh xã hội ngày càng được hoàn thiện, từ chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, đến các chương trình hỗ trợ người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số… đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm công bằng, thu hẹp khoảng cách phát triển, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Những thành quả ấy không chỉ khẳng định tinh thần "lấy con người làm trung tâm" trong mọi chủ trương, chính sách, mà còn minh chứng rõ ràng cho bản chất ưu việt của con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc ta đã lựa chọn.

Việt Nam đang sẵn sàng vững bước tiến vào kỷ nguyên mới với đầy đủ thế và lực sau 80 năm lập quốc và 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới.
Nâng tầm vị thế quốc gia
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN luôn là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là nền tảng để giữ gìn thành quả cách mạng và tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển bền vững. Suốt 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự đồng lòng của nhân dân, đất nước ta đã kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới và biển đảo thiêng liêng.
Chúng ta luôn chủ động, linh hoạt trong xử lý các vấn đề quốc phòng – an ninh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, đồng thời giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; lực lượng vũ trang được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân. Năng lực phòng thủ và bảo vệ của đất nước, ngày càng được tăng cường. Đây chính là một trong những thành tựu lớn, bền vững nhất của chặng đường 80 năm qua.

Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân.
Đặc từ một nền ngoại giao non trẻ, sau 80 năm, Việt Nam đã hình thành một nền ngoại giao toàn diện hiện đại. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đường lối đối ngoại của Việt Nam được triển khai theo phương châm "ứng bất biến, dĩ vạn biến", trong đó bảo đảm cao nhất, trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc, kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhờ kiên định đường lối ấy, Việt Nam đã bình thường hóa và thúc đẩy quan hệ với các đối tác then chốt, gia nhập ASEAN, WTO, CPTPP và ký EVFTA, RCEP...; thiết lập mạng lưới đối tác toàn cầu; thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao với 194/194 nước thành viên Liên hợp quốc; thiết lập được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 38 nước, trong đó có tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, các nước G7 và hầu hết các nước G20.
Đến nay Việt Nam là là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế, khẳng định vai trò, uy tín trên các diễn đàn đa phương; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình; triển khai hiệu quả ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa..., góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa bình, bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, theo Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, câu chuyện thành công của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho cộng đồng quốc tế. Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam được xem là một biểu tượng của của đấu tranh cho độc lập, tự do, là hiện thân của một đất nước anh dũng, kiên cường. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam được cho là "lương tri" của thời đại, đưa một vùng đất chưa có tên trên bản đồ thế giới trở thành biểu tượng hòa bình, hữu nghị.
Ngày nay, Việt Nam được đánh giá cao từ góc độ một quốc gia đang vươn lên mạnh mẽ, trở thành một hình mẫu thành công trong phát triển kinh tế - xã hội, có vai trò, tiếng nói ngày càng tăng trên trường quốc tế.

Lễ đón chính thức Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm cấp Nhà nước Mông Cổ năm 2024.
"Tôi nhớ câu nói của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres trong nhiều cuộc tiếp xúc đã nhắc đến Việt Nam như một "hình mẫu của hòa bình và phát triển bền vững". Hay Tổng Thư ký ASEAN Kao Kim Hourn đã nhấn mạnh Việt Nam là thành viên quan trọng, có đóng góp then chốt trong củng cố đoàn kết và nâng cao vị thế, năng lực của ASEAN trong đối thoại và hợp tác với các đối tác toàn cầu nhân dịp 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN.
Nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia và tổ chức quốc tế khác, qua những lời nói, hành động của mình cũng đánh giá cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, cho rằng Việt Nam là một đối tác tin cậy, một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế", Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nói.
Từ mùa Thu lịch sử năm 1945 đến nay, dân tộc Việt Nam đã viết nên bản hùng ca bất diệt về khát vọng độc lập, tự do, về ý chí tự lực, tự cường, về bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. 80 năm nhìn lại, để thấy rằng, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc gia chưa bao giờ vững mạnh như ngày hôm nay. Và đó là hành trang tiếp tục soi sáng con đường phía trước trong kỷ nguyên mới, để dân tộc ta vững bước xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng cường quốc năm châu.
Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/80-nam-co-do-nuoc-viet-nam-ta-204250901145311236.htm