TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát triển bền vững ngành điện – Những vấn đề đặt ra
Sáng 10/9, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm 'Phát triển bền vững ngành điện – Những vấn đề đặt ra' để cung cấp thông tin, có một bức tranh đa diện, đa chiều, toàn cảnh về chính sách sách giá bán điện; nguyên nhân hóa đơn tiền điện tăng; minh bạch hóa các khoản lỗ của EVN; những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện chính sách giá điện, góp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội…
Thủ tướng Chính phủ luôn nhấn mạnh yêu cầu, mệnh lệnh dứt khoát là phải bảo đảm "Đáp ứng đủ nhu cầu về điện năng trong mọi tình huống".
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, nhiều vấn cần cân đối, bù trì trong cách tính giá điện bán ra để phục vụ cho các mục tiêu an sinh xã hội vẫn đang được áp dụng; giá điện bán ra hiện nay vẫn chưa được tính đúng với chi phí giá thành sản xuất. Chúng ta vẫn đang trên lộ trình tính đúng, tính đủ giá điện bán ra trong nền kinh tế thị trường… Việc hoàn thiện chính sách giá điện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm đủ điện phục vụ cho sản xuất và đời sống là yêu cầu bắt buộc, bảo đảm phát triển bền vững. Trên lộ trình hoàn thiện chính sách này, hiện nay Bộ Công Thương đang xây dựng và lấy ý kiến sửa đổi Nghị định 72 quy định về cơ chế điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân.
Để cung cấp thông tin, có một bức tranh đa diện, đa chiều, toàn cảnh về chính sách sách giá bán điện; nguyên nhân hóa đơn tiền điện tăng; minh bạch hóa các khoản lỗ của EVN; những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện chính sách giá điện, góp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội… Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm "Phát triển bền vững ngành điện – Những vấn đề đặt ra" để phân tích, kiến giải, luận bàn về vấn đề này với sự tham dự của lãnh đạo các cơ quan nhà nước, Đại biểu Quốc hội, các chuyên gia kinh tế, tài chính, năng lượng, doanh nghiệp.

Các khách mời tham dự Tọa đàm (từ trái sang): Nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) Nguyễn Tiến Thỏa; Chuyên gia năng lượng Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và tăng trưởng xanh; Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) Trịnh Quốc Vũ; TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội điều phối Tọa đàm; Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội; Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Xuân Nam; Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường -.Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Các khách mời tham dự Tọa đàm có:
- Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội
- Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) Trịnh Quốc Vũ
- Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Xuân Nam
- Nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) Nguyễn Tiến Thỏa
- Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường
- Chuyên gia năng lượng Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và tăng trưởng xanh
- TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội điều phối Tọa đàm.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Mở đầu Tọa đàm, câu hỏi đầu tiên xin được dành cho vị khách mời đại diện Bộ Công Thương, ông Trịnh Quốc Vũ, Phó Cục trưởng Cục Điện lực. Xin hỏi ông, EVN có phải là kênh phân phối, bán điện trực tiếp, duy nhất tới người tiêu dùng cuối cùng hay không thưa ông? Còn hình thức nào nữa trong việc bán lẻ điện cho người tiêu dùng?

Ông Trịnh Quốc Vũ, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ông Trịnh Quốc Vũ, Phó Cục trưởng Cục Điện lực: Hiện nay, EVN không phải là đơn vị bán lẻ điện duy nhất trên toàn quốc. Bên cạnh EVN, chúng ta có 742 doanh nghiệp mua buôn và bán lẻ điện với thị phần chiếm khoảng 8,59%. Như vậy, thị phần theo sản lượng điện thương phẩm mà EVN bán cho các khách hàng sử dụng điện chiếm khoảng 91,4%.
Sắp tới, với việc mở rộng lộ trình thị trường điện sang cấp độ thị trường điện bán lẻ cạnh tranh thì tiếp tục sẽ có nhiều đơn vị mua buôn và bán lẻ điện để cạnh tranh với nhau trên thị trường bán lẻ điện cạnh tranh. Do đó, khách hàng sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong việc lựa chọn nhà cung cấp bán lẻ điện.
Chúng ta đã có cơ chế mua bán điện trực tiếp từ tháng 7/2024 theo quy định của Nghị định 80 của Chính phủ.
Theo đó, khách hàng sử dụng điện lớn là họ có thể lựa chọn mua điện trực tiếp từ các đơn vị phát điện năng lượng tái tạo theo 2 hình thức. Một là mua điện qua lưới điện kết nối riêng do đơn vị phát điện năng lượng tái tạo xây và cung cấp điện trực tiếp cho khách hàng. Cách thứ hai là mua bán điện trực tiếp nhưng qua lưới điện quốc gia thông qua thị trường điện giao ngay.
Đây là cơ chế đột phá giúp cho chúng ta tiến gần hơn đến thị trường bán lẻ điện cạnh tranh và cũng giúp cho khách hàng sử dụng điện, nhất là khách hàng sử dụng điện lớn, có nhiều lựa chọn hơn ngoài việc mua điện từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam như trước đây và cũng thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, giúp phát triển các nguồn năng lượng tái tạo và giúp đạt được mục tiêu Net Zero vào năm 2050 như cam kết của Chính phủ đối với cộng đồng quốc tế.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cảm ơn ông Trịnh Quốc Vũ. Có lẽ là như vậy đã rõ, hiện nay EVN không phải "một mình một chợ" và đã có những nhà cung cấp bán lẻ khác nữa, mặc dù tỉ lệ chưa cao. Như ông Vũ nói, rõ ràng là đang phát triển theo hướng sẽ có nhiều nhà bán lẻ hơn nữa, nhiều người mua trực tiếp từ người sản xuất điện. Chúng ta đang phát triển thị trường theo định hướng như vậy.
Từ sự phân tích của ông Trịnh Quốc Vũ, cũng như qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn, xin ông Nguyễn Xuân Nam, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn EVN cắt nghĩa, lý giải về thực trạng hóa đơn tiền điện theo phản ánh của một số người tiêu dùng có sự tăng cao bất thường trong thời gian vừa qua, nguyên nhân của thực trạng này do đâu? Đề nghị ông cho biết các vấn đề liên quan đến các thông tin này, có tình trạng tin giả, sai lệch hay không?

Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Xuân Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Xuân Nam: Thứ nhất, thời gian qua có dư luận phản ánh hóa đơn tiền điện tăng đột biến. Sau khi nhận phản ánh, EVN đã chỉ đạo các công ty điện lực rà soát lại tất cả khách hàng về vấn đề này.
Qua rà soát lại, phần sản lượng trong tháng 8/2025 khác với mọi năm là những ngày đầu tháng 8 năm nay nắng nóng bất thường nên sản lượng của hệ thống tăng kỷ lục, đạt 1 tỷ 084 triệu kWh, lập đỉnh cao nhất từ trước đến nay, chưa bao giờ cao đến vậy.
Cũng qua rà soát, thống kê, hiện nay có khoảng 3,2 triệu/31,8 triệu hộ khách hàng sinh hoạt, chiếm hơn 10%, có sản lượng điện tăng cao hơn 30% so với tháng 7.
EVN đã giao các Tổng công ty cài App cho khách hàng để theo dõi biến động sản lượng, đồng thời có tổng đài hotline trả lời rất kịp thời, và qua quá trình rà soát, hiện chưa có vấn đề sai sót như phản ánh.
Nhưng phản ánh cũng có thông tin giả, một số thông tin đưa không đúng, hoặc nhằm câu view bán hàng online, và có cả thông tin không xác định được địa chỉ để làm rõ.
Hiện nay, EVN không phải là đơn vị duy nhất bán lẻ điện cho khách hàng. Ngoài EVN, có các tổ chức mua buôn, bán lẻ, ví dụ như tại các khu đô thị, chung cư, khu công nghiệp, đơn vị quản lý lập ra một đơn vị mua buôn của EVN theo giá ưu đãi của Nhà nước rồi bán lại cho khách hàng trong khu vực đó, họ đưa ra định giá của đơn vị. Phần này EVN không kiểm soát được. Có hơn 700 tổ chức bán buôn, với sản lượng hệ thống chiếm hơn 8,59%. Do đó, nhiều khi có phản ánh nhưng không phải chỉ mình EVN bán điện mà còn các tổ chức khác, mà tổ chức khác EVN không quản lý được.
Hiện EVN vẫn đang tiếp tục rà soát và yêu cầu cài app, công bố tổng đài hotline đề nếu có phản ánh là EVN sẽ giải đáp ngay. Chúng ta đang thực hiện công tơ điện tử nên sẽ không có chuyện can thiệp làm sai lệch chỉ số tiêu thụ được, việc đo điện đều thực hiện từ xa, sau đó truyền online về, không còn việc đến đo chỉ số tiêu thụ tại công tơ cơ như cũ. Đối với EVN, đều là công tơ điện tử.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Đúng là hóa đơn điện có tăng vì nhu cầu tăng, chúng ta đang sử dụng điện theo bậc thang, nếu tăng quá nấc thang đó thì có thể là một nguyên nhân tiền điện tăng cao hơn so với trước. Và ở đây cũng có cả vấn đề truyền thông và mạng xã hội khai thác vấn đề này để câu view.
Xin hỏi thêm ông Nguyễn Xuân Nam, ở các khu đô thị đó, EVN không trực tiếp bán mà người dân phải mua qua một đơn vị trung gian khác. Vậy có cách nào để người dân phản ánh về quyền lợi của mình không?
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn EVN Nguyễn Xuân Nam: Bộ Công Thương cấp giấy phép cho tổ chức trung gian hoạt động theo Luật Điện lực, còn lại qua quy trình, EVN sẽ cùng cơ quan chức năng kiểm tra việc đó.
Phó Cục trưởng Cục Điện lực Trịnh Quốc Vũ: Giá bán lẻ điện chúng ta áp dụng đồng đều cho các khách hàng trên toàn quốc, có nghĩa là các đơn vị mua buôn-bán lẻ điện cũng phải tuân thủ bán điện theo giá Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, họ được hưởng giá bán buôn điện thấp hơn giá bán lẻ điện để bảo đảm thu hồi đủ chi phí đầu tư lưới điện trong các khu công nghiệp, khu dân cư, bảo đảm sản xuất kinh doanh của mình. Hiện chúng ta cũng có một chút ưu đãi cho đơn vị mua buôn-bán lẻ để hình thành nhiều đơn vị bán lẻ điện ngoài EVN. Tuy nhiên, phản ánh về hóa đơn tăng đột biến và vấn đề đo đếm công tơ thì không phải chỉ từ khách hàng sử dụng điện của EVN mà còn có cả khách hàng sử dụng điện của các đơn vị mua buôn-bán lẻ điện này.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Với góc độ cũng là một khách hàng sử dụng điện, xin ông Phan Đức Hiếu cho biết ý kiến tư vấn, góp ý để dịch vụ cung cấp điện cũng như thông tin trả lời khách hàng của EVN được đầy đủ và kịp thời hơn! Ông chia sẻ gì với ngành điện lúc này, nhất là vừa bảo đảm kinh doanh có lãi, vừa phải lo an sinh xã hội, vừa phải chuẩn bị các điều kiện để ngành điện có điều kiện đầu tư và phát triển các nguồn điện mới phục vụ phát triển kinh tế xã hội?

Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, chia sẻ tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội: EVN đang rơi vào một trong những thời điểm rất khó khăn, với tất cả các trường hợp như TS. Nguyễn Sĩ Dũng nói là phải cân bằng rất nhiều mục tiêu: Vừa duy trì sản xuất, duy trì nguồn điện, bảo đảm hiệu quả kinh doanh, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, rồi vấn đề tác động của nguồn điện đến hoạt động kinh tế - xã hội của từng người dân… Rõ ràng đây là một trong những nhiệm vụ rất khó khăn. Tôi rất chia sẻ với công việc này.
Tuy nhiên, khách quan mà nói, có mấy điểm chúng ta cần nhìn nhận về dịch vụ điện.
Thứ nhất, tôi chia sẻ từ góc độ người làm chính sách, chúng ta biết là EVN có đóng góp rất lớn trong việc cải thiện chỉ số tiếp cận điện năng, một trong những chỉ số Ngân hàng Thế giới sử dụng để đánh giá chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh. Đây là chỉ số có mức cải thiện mạnh nhất trong tất cả các chỉ số về khung khổ môi trường kinh doanh và được nước ngoài đánh giá cao.
Dịch vụ này không chỉ thay đổi về sự tiếp cận điện năng nhanh hơn, có lợi hơn, mà qua việc cải thiện vừa rồi, chúng tôi bắt đầu hiểu ra Ngân hàng Thế giới đánh giá cả về chất lượng của dịch vụ điện. Nhiều trường hợp trước đây, doanh nghiệp phản ánh cắt điện không báo trước hoặc báo trước trong thời gian rất ngắn, hay là chỉ số ổn định dòng điện chẳng hạn, nay đều đã cải thiện. Phải nói đây là một nỗ lực rất lớn, rất đáng ghi nhận.
Còn dưới góc độ của người tiêu dùng, với vai trò là một chủ hộ, tôi đánh giá như thế này: Trước đây thu tiền điện thường xuyên phải nhờ hàng xóm đóng giúp và phải chuẩn bị tiền mặt. Còn bây giờ, chúng ta có thể sử dụng tài khoản ngân hàng để trả tự động, đó là điều rất khác. Thứ hai, gần đây nhất, việc lắp công tơ điện tử vô cùng thuận tiện và đơn giản, khác rất nhiều so với sự tưởng tượng của chúng ta. Nên phải khách quan mà nói là có sự cải thiện rất mạnh trong dịch vụ cung ứng điện năng.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua có một số vấn đề liên quan, như câu chuyện ông Nam vừa nói, dịch vụ về điện. Có cả câu chuyện dịch vụ đó do ai cung cấp, EVN hay đơn vị khác? Dù thế nào đi nữa thì vẫn có câu chuyện ở đây và tôi cho rằng có vấn đề về truyền thông, về thông tin của chính EVN. Việc thông tin cho khách hàng là quan trọng nhất.
Ở đây có mấy điểm tôi mong muốn thời gian tới EVN có thể làm tốt hơn. Ở một khía cạnh nào đó đã tốt, nhưng nếu có cơ hội làm tốt hơn thì tôi nghĩ rằng nên làm tốt hơn, và không chỉ dừng lại ở mức độ một người bán điện đơn thuần. Thậm chí tôi cho rằng EVN có thể làm tốt hơn với tư cách một người tư vấn về sử dụng điện hiệu quả.
Tôi đơn cử mấy việc EVN hoàn toàn có thể làm được tốt hơn. Ví dụ thế này: Có những gia đình sử dụng một tháng phải trả tiền điện rất nhiều. EVN hoàn toàn có thể xử lý được ngay vì bây giờ chỉ số công tơ bằng điện tử, như vậy cứ định kỳ, với ứng dụng công nghệ thông tin, có gia đình nào đó trong 1-2 ngày tiêu thụ điện đột biến, thì ngay lập tức gửi cảnh báo đến gia đình đó, không đợi đến cuối tháng. Thậm chí xuống hỗ trợ xem xét tại sao điện lại tăng nhanh như vậy, tránh tình trạng cuối tháng đưa ra một cái hóa đơn. Về lý mà nói thì mình đúng lý, nhưng về mặt tình thì có lẽ có thể làm tốt hơn việc này. Như vậy, người dân sẽ rất đồng tình.
Thứ hai, có những thông tin chung. Tôi nghĩ thông tin về điện cũng quan trọng như dự báo thời tiết. Lấy ví dụ, như ông Nam nói là tháng 8 tiêu dùng điện tăng đột biến nhưng bây giờ mình mới ngồi lại để nói với nhau trong khi người dân đã phải trả hóa đơn tiền điện. Bằng thống kê của mình, có thể định kỳ hằng tuần, giống như dự báo thời tiết, mình dự báo khu vực nào đang có mức độ tiêu thụ điện trong tuần vừa qua tăng lên rất nhiều và cảnh báo các gia đình nếu cứ tiếp tục xu hướng này thì mỗi gia đình trong tháng này tiền điện sẽ dự kiến tăng bao nhiêu. Như vậy, họ phải có phương án để tiết kiệm điện, nếu không sẽ phải trả hóa đơn rất lớn. Như vậy là chuyển từ thế bị động sang chủ động, trở thành đơn vị cảnh báo, cung cấp thông tin, và như vậy tốt cho cả hai bên.
Trước tôi lắp công tơ điện và được hướng dẫn cài app thành công qua hotline. Nhưng tôi nghĩ là mình đâu chỉ đơn giản dùng hotline chỉ vào một việc như vậy. Hằng ngày, có rất nhiều sự cố về điện. Tôi rất muốn Tập đoàn Điện lực suy nghĩ thêm, nên có số hotline để tất cả mọi người dân có vấn đề gì về điện thì gọi đến số đó, ví dụ số 102 chẳng hạn. Chứ gọi điện về các số hotline của các cơ sở, cơ quan quản lý điện phường, quận rất khó, lúc ở miền Bắc, lúc ở miền Nam, rất nhiều số và dãy số rất dài. Tôi rất mong có một số như vậy. Tất cả khách hàng của EVN khi nàn gì đó, họ liên hệ với số này và được giải quyết thì rõ ràng sẽ tốt hơn rất nhiều. Tôi mạnh dạn đề nghị lấy luôn số 102.
Rõ ràng, thời gian vừa qua là có vấn đề của truyền thông, của thông tin, nên bây giờ cũng nên coi đây là cơ hội để mình cải thiện tốt hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng điện. Việc này tốt cho EVN, vì sao? Vì sắp tới EVN phải cạnh tranh với những người bán điện khác, nếu như làm dịch vụ tốt thì người dân mới chọn, mới dùng.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Chúng ta chia sẻ về ý kiến của anh Hiếu. Ở đây rõ ràng là một cách quản trị khác, quản trị mới và phải hướng tới khách hàng. Đó là một định hướng tốt. Và bây giờ với công nghệ thông tin, với trí tuệ nhân tạo, hoàn toàn có thể làm được như vậy.
Về các nội dung cụ thể liên quan đến cách giá điện bán ra, như đã phân tích, giá điện bán ra của chúng ta vẫn đang trên lộ trình "tính đúng, tính đủ" và việc hoàn thiện chính sách giá điện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Ông Trịnh Quốc Vũ có thể phân tích rõ hơn về bối cảnh kinh tế, xã hội cần thiết đặt ra cần phải sửa Nghị định 72 và các căn cứ pháp lý để sửa đổi Nghị định?

Phó Cục trưởng Cục Điện lực Trịnh Quốc Vũ trao đổi cùng TS. Nguyễn Sĩ Dũng - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Cục trưởng Cục Điện lực Trịnh Quốc Vũ: Trước hết, tôi muốn làm rõ những chi phí nào hợp lý, hợp lệ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam chưa được hạch toán và tính toán đủ vào giá bán lẻ điện.
Năm 2022 và năm 2023 xảy ra xung đột địa chính trị giữa Nga và Ukraine làm cho thị trường năng lượng sơ cấp của thế giới biến động rất mạnh, cụ thể là giá tăng rất bất thường.
Ví dụ như với thị trường than, chúng ta mới chỉ tự chủ được một phần than để sản xuất điện, còn lại tỉ trọng than nhập để chạy các nhà máy điện càng ngày càng cao, lên đến khoảng 40-50%, tương lai còn cao nữa.
Năm 2022, giá than tăng 163% so với năm 2021, tăng rất mạnh; cá biệt có những tháng như tháng 4/2022 tăng đến 411%; tức là đang từ mức 138 USD/tấn tăng lên là 705 USD/tấn.
Biến động rất lớn của nhiên liệu sơ cấp sẽ phản ánh trong giá phát điện thông qua hợp đồng mua bán điện được điều chỉnh theo giá nhiên liệu đầu vào.
Đối với khí thì tăng ít hơn, nhưng cũng ở mức 27,4% so với năm 2021.
Đến năm 2023, mặt bằng giá nhiên liệu tốt hơn năm 2022 nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mặt bằng chung về giá nhiên liệu năm 2021.
Điều này dẫn đến chi phí mua điện của EVN từ các nguồn điện, nhất là từ các nguồn sử dụng năng lượng hóa thạch, bao gồm than, khí và dầu, đều tăng rất lớn.
Cần nói rõ là trong cơ cấu các nguồn điện, có khoảng 30% sản lượng điện từ thủy điện; khoảng 12% sản lượng từ các nguồn điện mặt trời và điện gió. Mặc dù nguồn điện mặt trời, điện gió có tổng công suất đặt chiếm đến 27-28% công suất đặt của toàn hệ thống điện, nhưng sản lượng chỉ được có 11-12% thôi, bởi vì số giờ phát ít, ban ngày mới phát được điện mặt trời, ban đêm thì không. Điện gió cũng như vậy, mùa gió mới phát được nhiều, mùa ít gió lại không phát được. Tôi muốn nói rõ là các chi phí nhiên liệu đầu vào ảnh hưởng rất lớn đến chi phí giá thành điện năng.
Theo quy định về giá điện thì các chi phí hợp lý, hợp lệ trong cấu thành chi phí giá điện đầu vào của EVN sẽ được tính vào giá bán lẻ điện bình quân để điều chỉnh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh năm 2022 chúng ta mới bước ra từ đại dịch COVID-19, nền kinh tế và các lĩnh vực cần có sự ổn định để phục hồi sau đại dịch, chúng ta đã quyết định chưa điều chỉnh giá điện. Trong năm 2022, không có một lần nào tăng giá điện. Năm 2023 có 2 lần tăng nhưng rất nhỏ giọt và thấp. Cuối năm 2023, EVN chịu một khoản thâm hụt do chi phí, chúng ta quen gọi là lỗ lũy kế, đến khoảng 50.000 tỷ. Đó là chưa tính đến khoảng 21.800 tỷ chênh lệch tỷ giá điện mà EVN phải trả cho các đơn vị phát điện theo hợp đồng mua bán điện, tức là do trượt tỉ giá giữa đồng nội tệ VND và các đồng ngoại tệ mà các đơn vị phát điện phải đi vay vốn từ các tổ chức tín dụng nước ngoài để đầu tư vào các nguồn điện và EVN phải có trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng mua bán điện.
Điều đó tạo ra thâm hụt giữa doanh thu so với tổng chi phí cấu thành nên giá điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Không sớm thì muộn chúng ta phải cho doanh nghiệp hạch toán tính đúng tính đủ vào giá điện, bởi vì EVN cũng không thể chịu được mãi.
Về căn cứ pháp luật và căn cứ chính trị, chúng ta đã có Luật Điện lực năm 2024. Luật quy định rất rõ là giá bán lẻ điện phải phản ánh và điều chỉnh kịp thời theo biến động thực tế của thông số đầu vào, bù đắp chi phí hợp lý, hợp lệ và lợi nhuận hợp lý để bảo toàn phát triển vốn kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ và tốc độ thị trường cạnh tranh.
Luật số 68 về quản lý đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp cũng có quy định là doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. EVN là tập đoàn nhà nước, vốn 100% của Nhà nước thì cũng có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp.
Và đặc biệt là Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị mới được ban hành trong những ngày gần đây đã quy định rất rõ là đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, rà soát bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm vốn cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước phát triển và khai thác các dự án năng lượng quy mô lớn, quan trọng và cấp bách.
Nghị quyết 70 cũng đã đưa ra một yêu cầu rất rõ là chấm dứt tình trạng doanh nghiệp nhà nước chậm thanh toán cho các doanh nghiệp tư nhân theo các hợp đồng hoặc các thỏa thuận đã được ký kết.
Trong thời gian tới, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đứng trước một nhiệm vụ rất lớn, được Chính phủ giao đầu tư các nguồn điện như nguồn điện hạt nhân Ninh Thuận 1, hay nguồn thủy điện quy mô rất lớn, Thủy điện tích năng Bác Ái để điều hòa giữa công suất nguồn, phụ tải, và các nguồn điện gió, nhiệt điện Quảng Trạch.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam rất cần tình hình tài chính lành mạnh để có thể tiếp cận và vay vốn, không những ở các tổ chức tín dụng trong nước mà cả quốc tế nữa. Chúng tôi cho rằng, thời điểm hiện nay là thời điểm chúng ta điều chỉnh bổ sung Nghị định số 72 để cho phép EVN hạch toán được các chi phí giá thành điện năng kịp thời, tính đúng, tính đủ trong giá điện phù hợp.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi rất chia sẻ một thuật ngữ mà ông Vũ dùng ở đây, đó là "bị thâm hụt", chứ không phải là lỗ. Chúng ta sử dụng từ "lỗ" thì có thể sẽ hiểu sai. Ở đây là đầu vào chưa được tính, chứ không phải là do quản trị. Tôi nghĩ là những thiếu hụt do quản trị yếu kém, rủi ro thị trường thì nên gọi là lỗ. Còn cái này là thâm hụt do chính sách bởi vì mục đích lớn hơn. Thực chất, Chính phủ quyết định như vậy là sáng suốt. Lúc đó nền kinh tế đang rất yếu thêm giá điện tăng nữa thì khó vựa dậy, khó phục hồi được. Nhưng rõ ràng, đầu vào chưa được tính đủ cho EVN.
Thưa các chuyên gia năng lượng Lê Việt Cường và Hà Đăng Sơn, xin các ông chia sẻ về diễn biến giá điện trong thời gian vừa qua khi có biến động lớn về năng lượng, xung đột địa chính trị và các nước trên thế giới tiến hành các giải pháp như thế nào đẻ xử lý giá điện tăng đột biến như vậy?
Ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và tăng trưởng xanh: Chúng ta nhìn vào thực tế năm 2021-2023, không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với những biến động lớn. Ví dụ như châu Âu, một khu vực đã đi theo xu hướng tư nhân hóa rất mạnh mẽ và gần như thả nổi giá điện theo cơ chế thị trường cạnh tranh nhưng, trong giai đoạn xảy ra cuộc khủng hoảng chính trị liên quan đến cuộc xung đột Nga-Ukraine, đặc biệt là về khí đốt – châu Âu sử dụng rất nhiều khí cho nhu cầu phát điện cũng như sưởi ấm – thì theo số liệu được công bố chính thức của Cơ quan Thống kê châu Âu, giá điện bán lẻ đã tăng tối thiểu là gấp hai lần, và có những thời điểm tăng khoảng ba đến bốn lần.
Do tác động quá lớn đến đời sống xã hội của người dân châu Âu và đồng thời để đảm bảo ổn định việc cung ứng năng lượng cho người dân, nhất là trong mùa đông, Nghị viện châu Âu cũng đã ra những nghị quyết, sắc lệnh để kiểm soát giá rất mạnh mẽ, nhằm tránh việc giá tăng quá cao theo đà tăng của giá nhiên liệu. Tuy nhiên, ngay sau giai đoạn khủng hoảng và giá rất cao đó, khi giá nhiên liệu bắt đầu ổn định và giảm xuống, giá điện bán lẻ của châu Âu vẫn tăng và giữ ở mức tương đối cao so với trước đây.
Hoa Kỳ là một quốc gia chủ động rất nhiều về mặt khí đốt và cũng là nhà xuất khẩu khí LNG lớn trên thế giới. Nhưng trong giai đoạn từ năm 2020 đến 2024, giá điện bán lẻ của Hoa Kỳ cũng tăng rất cao. Đặc biệt, năm 2022, theo báo cáo của Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ, giá điện đã tăng đến 13,1% và đến năm 2023 tăng thêm 5,8%.
Singapore cũng là một quốc gia trong khu vực dựa chủ yếu vào nguồn khí để cung ứng điện và năng lượng cho nhu cầu phát triển. Trong giai đoạn so sánh giữa đầu năm 2022 với năm 2020, giá điện đã tăng khoảng 42%.
Như vậy, từ khu vực châu Á, châu Âu rồi đến Hoa Kỳ, cách thức điều chỉnh giá rất linh hoạt. Chúng ta cũng biết rằng mô hình thị trường bán lẻ điện của Singapore là một thị trường cạnh tranh rất mạnh. Nhưng đúng vào giai đoạn khủng hoảng đó, đã có những công ty bán lẻ của Singapore xin dừng hoạt động, không bán điện và trả lại khách hàng cho công ty điện lực nhà nước là SP Power. Các công ty tư nhân này từ chối cung cấp dịch vụ vì giá đầu vào quá cao, không thể bán được theo các cam kết trong hợp đồng bán lẻ.
Thái Lan và Malaysia cũng bị ảnh hưởng rất lớn. Tại Malaysia, giá thành sản xuất điện tăng 45%, nhưng do họ cũng là nước sản xuất dầu khí và có những quy định của chính phủ để kìm giữ giá, nên giá bán lẻ chỉ tăng khoảng 10%. Thái Lan thì điều chỉnh giá bán lẻ bám sát theo giá nhiên liệu, cho nên khi giá nhiên liệu thay đổi, họ cũng đưa vào biểu giá nhưng có những kiểm soát nhất định. Cần nhắc lại là trong giá bán điện bán lẻ của Thái Lan, họ đã có khoản phí dự phòng hằng tháng. Đây là mô hình mà thị trường bán lẻ cạnh tranh của chúng ta rất muốn đi theo. Ngày hôm qua, Bộ Công Thương đã có cuộc họp về cơ cấu giá điện, chúng ta cũng mong muốn tách riêng phần giá công suất và phí dịch vụ hằng tháng ra khỏi phần giá điện năng.
Chúng ta thấy gần như các quốc gia đều phải có tác động của chính phủ để kìm giữ giá, sau đó sẽ bồi hoàn lại cho ngành điện. Tuy nhiên, kế hoạch này có thể gây ra lỗ rất lớn, và sau đó họ được phép thu hồi lại bằng cách tăng giá điện về sau.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Rõ ràng cú sốc về tăng giá này càng làm tình hình thêm phức tạp khi có biến động về chính trị. Vậy đối với Việt Nam, áp lực lên giá điện như thế nào với chi phí đầu vào tăng lên như vậy, xin được hỏi ý kiến của ông Lê Việt Cường?
Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường: Từ ý kiến của ông Hà Đăng Sơn, tôi tổng hợp lại vấn đề về giá điện trong bối cảnh vừa qua. Rõ ràng đây là một bài toán rất phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố từ điều kiện tự nhiên đến chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Chính sách về giá điện của các nước thời gian vừa qua tựu chung lại trong một số điểm, chính là phương pháp, nguyên tắc trong điều hành giá điện của Việt Nam được quy định trong Luật Điện lực cũng như các văn bản pháp luật có liên quan. Đó là phải được điều chỉnh kịp thời để phản ánh các biến đổi của chi phí đầu vào, phải bù đắp được những chi phí hợp lý, hợp lệ và đảm bảo một mức lợi nhuận hợp lý để các doanh nghiệp có thể tham gia vào thị trường điện, có cơ hội tái đầu tư.
Thứ hai, phụ thuộc vào yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp và điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Trong giai đoạn đặc biệt của dịch COVID-19 vừa qua, mặc dù các quốc gia, thậm chí một số nước đã có chính sách trợ giá năng lượng, nhưng vẫn không thể phản ánh hết chi phí đầu vào, và giá điện đã tăng ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước phụ thuộc vào các nguồn năng lượng sơ cấp như than và khí, vốn biến động theo thị trường thế giới.
Trong khi đó, chúng ta nhìn lại Việt Nam trong giai đoạn rộng hơn. Không chỉ giai đoạn 2022-2023, mà từ 2018 đến 2023, theo tính toán nghiên cứu của chúng tôi, cấu thành giá điện của Việt Nam phần lớn nhất phụ thuộc vào chi phí sản xuất điện, chiếm khoảng 74-82%. Các chi phí khác bao gồm truyền tải, phân phối, dịch vụ phụ trợ và quản lý. Theo thống kê của chúng tôi, những chi phí thuộc trách nhiệm quản lý của EVN có xu hướng đi ngang hoặc thậm chí giảm. Đây là điểm chúng ta cần nhìn vào cơ cấu để hiểu được bản chất vấn đề.
Chi phí của Việt Nam tăng chậm hơn là do chính sách điều hành về kinh tế - xã hội. Nhưng chúng ta có một đặc điểm về cơ cấu nguồn cần phải hiểu rõ. Thứ nhất, thủy điện chiếm tỉ lệ tương đối, nhiệt điện than chiếm gần 50% và nhiệt điện khí gần 10%. Nhiệt điện than và khí là hai nguồn rất nhạy cảm với biến động chi phí giá nguyên liệu đầu vào. Đây là những chi phí biến động khách quan theo thị trường thế giới. Ngoài ra, còn có yếu tố liên quan đến tỉ giá.
Ở góc độ của cơ quan làm quy hoạch, có một xu thế là trong giai đoạn sắp tới, cơ cấu nguồn của chúng ta sẽ tiếp tục phát triển theo khuynh hướng phụ thuộc vào những nguồn nhạy cảm với giá thị trường, như khí LNG, than nhập khẩu... Do đó, để đảm bảo các mục tiêu phát triển, thu hút đầu tư, rõ ràng việc tính toán giá điện phải phản ánh được đúng những chi phí đó theo các quy định pháp luật.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Chúng ta vừa điều chỉnh Quy hoạch điện VIII để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới, mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, xin ông Lê Việt Cường phân tích thêm về mối liên hệ giữa việc đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển hệ thống điện và giá điện đầu ra?
Ông Lê Việt Cường: Ở góc nhìn này, tôi xin chia sẻ về vấn đề giá điện trong mối liên hệ với nguồn vốn để đầu tư phát triển điện lực, nhằm đảm bảo các mục tiêu phát triển và an ninh năng lượng, đảm bảo sự phát triển kinh tế trong giai đoạn mới cũng như hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 – một mục tiêu dài hạn.
Thực tế đã chứng minh, trong quá trình thực hiện các quy hoạch phát triển điện lực, đặc biệt là quá trình đầu tư các dự án nguồn và lưới điện của các doanh nghiệp nhà nước, việc đảm bảo được tiến độ đã có đóng góp rất quan trọng vào công tác đảm bảo an ninh cung ứng điện trong suốt giai đoạn vừa qua. Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng đã đưa ra các mục tiêu về quy mô nguồn điện, lưới điện và các giải pháp thực hiện.
Tuy nhiên, bên cạnh định hướng đẩy mạnh thu hút, huy động nguồn lực của xã hội, của tư nhân, các DN FDI tham gia thì vai trò của doanh nghiệp nhà nước vẫn đặc biệt quan trọng, nhất là với các dự án có quy mô lớn, quan trọng và cấp bách, bao gồm cả công trình nguồn và lưới điện.
Như chúng ta đã biết, theo quy định của pháp luật về đầu tư, trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư của chủ đầu tư, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, các chủ đầu tư đều phải chứng minh năng lực tài chính. Trong trường hợp không đạt yêu cầu, các cơ quan có thẩm quyền hoặc các tổ chức tài chính có thể không chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc không cung cấp vốn.
Từ góc nhìn đó, theo quan điểm của chúng tôi, việc đảm bảo nguồn vốn cho các tập đoàn, doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong việc triển khai các dự án quy mô lớn, quan trọng và cấp bách là một giải pháp then chốt. Nó phù hợp với các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị được ban hành thời gian vừa qua.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Mời ông Hà Đăng Sơn bình luận thêm về vấn đề này, nguồn lực tài chính cho EVN để phát triển và giá điện sắp tới bảo đảm phát triển kinh tế xã hội trong thời gian sắp tới, đặc biệt là chúng ta đang muốn tăng trưởng 2 con số.
Ông Hà Đăng Sơn: Theo Nghị quyết đã nêu, chúng ta sẽ nhắm đến mục tiêu giai đoạn 2026-2030 có tăng trưởng mạnh mẽ, hướng tới tăng trưởng hai con số tức là trên 10%. Để làm được việc này, theo Nghị quyết 70 như các anh vừa mới nhắc, để đảm bảo an ninh năng lượng, đảm bảo cung ứng điện trở thành một nhu cầu cấp thiết, như Nghị quyết nêu là: Yêu cầu cao nhất là phải đảm bảo điện trong mọi điều kiện để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng mục tiêu kép 100 năm.
Điều này tạo ra một thách thức rất lớn về nguồn lực. Nguồn lực từ khu vực công thông qua các tập đoàn kinh tế nhà nước như EVN, PVN cũng chỉ có giới hạn. Đương nhiên, trong những giai đoạn khó khăn, Chính phủ đã ban hành các chính sách để ổn định an sinh xã hội. Tuy nhiên, như chúng ta đã trao đổi, những chi phí đã phát sinh nếu hoàn lại sau này sẽ rất khó khăn do các vấn đề liên quan đến ý kiến người dân.
Nhưng đối với tư nhân, họ rất sòng phẳng và chúng ta thấy, sắp tới đầu tư tư nhân cho nguồn điện sẽ rất lớn, đặc biệt là các dự án điện khí, hầu hết các dự án này là do tư nhân đầu tư. Trong các cuộc họp gần đây của Bộ Công Thương với các nhà đầu tư về điện khí LNG - theo tính toán dự kiến đến năm 2050 sẽ chiếm khoảng 30% sản lượng điện toàn quốc, các nhà đầu tư đều nêu mong muốn có những ưu đãi, có cơ chế bao tiêu, được chuyển ngang giá nhiên liệu. Tức là họ chuyển tất cả rủi ro về thay đổi giá nhiên liệu, về hợp đồng, về việc có được huy động phát điện hay không… sang cho bên mua. Họ yêu cầu áp dụng nguyên tắc "take-or-pay" (mua hoặc trả tiền), yêu cầu sản lượng được huy động ở mức rất cao. Lý do họ đưa ra là để đảm bảo hồ sơ trình cho ngân hàng vay vốn cho dự án, chứng minh được nguồn thu ổn định để trả lãi. Tất cả những yếu tố này quay lại câu chuyện là trong các hợp đồng mua bán điện, nếu EVN không có một cơ chế để điều chỉnh giá điện một cách phù hợp khi phải mua điện từ các nhà đầu tư tư nhân với giá nhiên liệu tăng cao, thì sẽ không thể chuyển các chi phí này vào giá bán lẻ điện. Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng thâm hụt kéo dài và ảnh hưởng đến rất nhiều yếu tố: Thứ nhất là môi trường đầu tư, thứ hai là uy tín về mặt tài chính và khả năng vay vốn của EVN. Và cuối cùng, chúng ta sẽ không thể đảm bảo được vốn cũng như nỗ lực phát triển lưới điện và nguồn điện theo đúng như quy hoạch đã đề ra, cũng như các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế của chúng ta.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Chúng ta đã nghe hai chuyên gia, hai nhà nghiên cứu nói tương đối khách quan về nhu cầu và mong muốn có tình trạng tài chính lành mạnh cho EVN, cũng như việc điều chỉnh giá là một nhu cầu khách quan nếu chúng ta muốn vận hành theo cơ chế thị trường đầy đủ. Giá là một trong những thứ phải theo thị trường, và như vậy, việc điều chỉnh là cần thiết.
Ở đây tôi thấy có khoản 45.000 tỷ chưa tính vào chi phí, trên mạng xã hội gọi là lỗ, thành thử nhiều khi có cái nhìn chưa chuẩn xác. Xin hỏi ông Nguyễn Xuân Nam, nguyên nhân gì mà 45.000 tỷ này chưa được tính vào chi phí, để dư luận hiểu rõ. Và như vậy, EVN tìm cách nào để tiết kiệm chi phí trong hoạt động của mình, đặc biệt là các cơ quan thanh tra, kiểm tra vừa rồi đã kết luận về những khoản lỗ của EVN như thế nào?
Phó Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Xuân Nam: Năm 2022-2023, do khủng hoảng chính trị của thế giới, đặc biệt giữa Nga và Ukraine, giá nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là than, tăng đột biến, gần 4 lần, khí tăng gần gấp đôi… đã đẩy giá đầu vào tăng.
Trong khi giá đầu vào tăng, giá điện lại không được điều chỉnh, nên không bù đắp được chi phí đầu vào. Luật Điện lực quy định, phương án giá điện phải được bù đắp giá đầu vào hợp lý, hợp lệ được Bộ Công Thương thẩm định.
Thời gian đó, chúng ta phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước sau dịch COVID-19 nên EVN chưa được điều chỉnh lại việc đó, từ đó dẫn đến giá bán thấp trong khi giá thành cao, cho nên chi phí này tồn đọng lại, mặc dù EVN đã tiết kiệm nhiều. Năm 2024, do có lãi nên có giảm được một phần, nên còn lại 44.000 tỷ chưa được bù đắp.
Viện dẫn năm 2022, giá thành là 2.032 đồng, nhưng giá bán chỉ 1.800 đồng, như vậy EVN bán thấp hơn 149 đồng/1 kWh, sản lượng điện thương phẩm gần 250 tỷ kWh. Năm 2023, giá bán 1.953 đồng, giá thành 2.088 đồng, như vậy bán thấp hơn giá thành 135 đồng/1 kWh, EVN cũng đã nỗ lực tiết kiệm để cắt giảm chi phí.
Một điểm nữa là thị phần nguồn điện hiện nay của Việt Nam, năm 2022, EVN chiếm 46% hệ thống, nhưng năm 2023 chỉ còn 42%. Thị phần của EVN ngày càng nhỏ lại, mà khoản này EVN mua của phía ngoài nên phải trả ngay.
Hiện khâu truyền tải và phân phối chiếm chỉ 16% trong cơ cấu giá thành, khâu phát điện, mua điện là chính, khâu truyền tải và phân phối ngày càng nhỏ lại. EVN tiết kiệm giá ngày càng giảm xuống, mà chỉ tăng ở khâu phát điện mua ngoài thôi.
Một điểm nữa là thủy điện, nguồn điện giá rẻ nhất, bây giờ đã hữu hạn, không phát triển được nữa. Giờ chủ yếu phát triển ở khâu nhiệt điện, năng lượng tái tạo, mà nhiệt điện, khí hỏa lỏng hiện nay giá mua gần 4.000 đồng/1 kWh, mà mình bán có 2.100 đồng/1 kWh.
Số liệu năm 2022-2023 của EVN đã được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán chuyên đề giá điện và đã có kết luận minh bạch, rõ ràng.
Phó Cục trưởng Cục Điện lực Trịnh Quốc Vũ: Trong hai năm 2022-2023, EVN lỗ. Năm 2023, Bộ cũng thành lập đoàn kiểm tra giá thành sản xuất kinh doanh điện; năm 2024 cũng có đoàn như vậy, để kiểm tra giá thành sản xuất kinh doanh điện của EVN năm 2022-2023.
Thành phần đoàn có cả đại diện Bộ Tài chính, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiệp hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... rất công khai, minh bạch về chi phí giá thành sản xuất kinh doanh điện của EVN.
Tháng 10/2024, Kiểm toán Nhà nước có kiểm toán chuyên đề về giá bán điện 2022-2023. Nói như vậy nghĩa là EVN là Tập đoàn nhà nước sản xuất kinh doanh điện nhưng chịu sự điều tiết của Nhà nước, chịu sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước chứ không phải EVN độc quyền.
EVN cũng chịu thâm hụt trong mấy năm vừa rồi nên đã "thắt lưng buộc bụng", cụ thể là chi phí cho lưới điện truyền tải đến lưới điện phân phối, đã giảm thiểu chi phí về đầu tư, bảo dưỡng, vận hành. Nhưng có lẽ điều này không bền vững về lâu dài, không bảo đảm chất lượng của lưới mà có thể gây quá tải, tăng suất sự cố. Quan điểm quản lý nhà nước của chúng tôi muốn các chi phí cấu thành giá điện được phản ánh đúng, phản ánh đủ và kịp thời, đặc biệt là lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối.
Trong giai đoạn tới chúng ta đặt mục tiêu phát triển kinh tế 2 con số thì lưới này cần được củng cố và phát triển tương xứng với quy mô phát triển nguồn điện.
Ông Hà Đăng Sơn: Theo thống kê của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt châu Âu và Hoa Kỳ, tỉ trọng về chi phí ở trong giá thành bán điện ở các nước ở đây tối thiểu khoảng 20%, ở Đức có thể lên đến 40%, tức là họ tính rất rộng. Lý do chi phí cao là do đưa nhiều nguồn điện năng lượng tái tạo, nguồn điện sạch ở các quốc gia này vào, dẫn tới chi phí về truyền tải và phân phối tăng lên cao trong giá thành bán lẻ.
Nghị quyết 70 vừa rồi yêu cầu phải thu hút cả đầu tư tư nhân trong phát triển các lưới điện truyền tải và phân phối. Như ông Nguyễn Xuân Nam vừa chia sẻ, chi phí chỉ 14% sẽ dẫn tới thách thức rất lớn trong thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân trong xây dựng các lưới truyền tải, phân phối, sự tham gia tư nhân trong thị trường bán lẻ trong tương lai, bởi nếu thấp như thế sẽ không có tư nhân nào làm nổi. Bộ Công Thương cũng đã có cân nhắc và xem xét trong câu chuyện điều chỉnh ở Nghị định 72 lần này.