Ai có nguy cơ 'ung thư phổi do di truyền'?
Một bệnh viện tư nhân đã quảng cáo trên mạng xã hội về dịch vụ xét nghiệm di truyền ung thư phổi, trong đó có cảnh báo hút thuốc lá, ô nhiễm không khí… cũng là những nguy cơ di truyền. Thông tin này có nhiều sai lệch về y khoa. Để hiểu đúng mối nguy ung thư phổi do di truyền, chúng tôi ghi nhận ý kiến chuyên môn của bác sĩ.
ThS-BS. Nguyễn Tiến Đồng (Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội), cho biết ung thư phổi là một bệnh lý ác tính xuất phát từ sự tăng sinh mất kiểm soát các tế bào trong nhu mô phổi. Bệnh phổ biến trên toàn thế giới và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh lý ung thư ở cả hai giới.
Điều kiện hình thành ung thư di truyền
Tế bào ung thư là những tế bào đột biến, phát triển không chịu sự kiểm soát của cơ thể. Phần lớn các đột biến này xuất hiện sau khi sinh, trong quá trình tương tác với môi trường sống và chúng không di truyền được. Một số nhỏ đột biến khác có từ ngay khi mới sinh (do đột biến tế bào mầm - tế bào phân chia và hình thành nên toàn bộ cơ thể) và những đột biến này thì di truyền được.
Cơ thể mỗi người nhận hai bản sao gen khác nhau từ cha và mẹ. Do đó, khi đã mang trong mình một gen đột biến thì chỉ cần đột biến ở một gen còn lại sẽ tạo điều kiện hình thành ung thư.
Trong khi đó, ở một người mang cả hai gen bình thường thì cần đột biến xảy ra ở cả hai gen mới đủ khả năng sinh bệnh. Vì vậy những người nhận di truyền gen đột biến có nguy cơ bị ung thư cao hơn so với những người sinh ra không có gen đột biến.
“Nếu gia đình có cha mẹ, anh chị em mắc ung thư phổi thì nguy cơ mắc ung thư phổi sẽ tăng 2-3 lần. Tuy nhiên, cần xem xét điều này trong bối cảnh rộng hơn, nhiều thành viên trong gia đình cùng mắc ung thư đó có thể là do cùng tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ như khói thuốc (hút chủ động hoặc bị động), môi trường sống chung ô nhiễm hóa học, phóng xạ... Đây cũng chính là những khó khăn khi xác định có phải là ung thư phổi di truyền không”, BS. Đồng nói.
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính với ung thư phổi. Tuy nhiên, theo thống kê trên toàn thế giới chỉ có 10-15% người hút thuốc lá bị ung thư phổi và 10-25% những người bị ung thư phổi không hề hút thuốc.
Hút thuốc lá thụ động được đặt ra trong trường hợp này, vì nó đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi lên 20%. Tuy vậy, hút thuốc lá thụ động cũng chỉ chiếm 16-24% các trường hợp ung thư phổi ở người không hút thuốc. Ung thư phổi ở người không hút thuốc thường được chẩn đoán ở giới nữ, trẻ tuổi hơn và có xu hướng đáp ứng tốt hơn với điều trị có sự xuất hiện của các đột biến gen giúp có thể can thiệp bằng liệu pháp điều trị đích.
Một số gen liên quan đến ung thư phổi
BS. Đồng cho biết khoảng 8% các trường hợp ung thư phổi là ung thư phổi di truyền. Việc xác định đột biến gen của tế bào dòng mầm liên quan tới ung thư phổi di truyền vẫn là một thách thức. Hiện nay, một số gen liên quan tới ung thư phổi được xác định gồm:
Gen EGFR: đột biến gen EGFR T790M ở tế bào dòng mầm làm tăng nguy cơ phát triển ung thư phổi, đặc biệt ở người không hút thuốc. Đột biến rất hiếm nhưng được ước tính làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi ở những người không hút thuốc lên 31%.
Gen TP53: đây là gen ức chế khối u. Đột biến gen TP53 ở các tế bào dòng mầm làm mất khả năng ức chế khối u do đó tăng nguy cơ xuất hiện ung thư ở nhiều cơ quan, trong đó có ung thư phổi và ung thư thường khởi phát sớm. Hội chứng Li-Fraumeni là hội chứng di truyền hiếm gặp liên quan đến đột biến này.
Các khối u liên quan đến hội chứng này bao gồm ung thư vú, sarcoma mô mềm, sarcoma xương, u não và ung thư biểu mô vỏ thượng thận. Ung thư phổi xảy ra ở 2,3-6,8% bệnh nhân mắc hội chứng Li-Fraumeni thường là nam giới, độ tuổi trung bình khi được chẩn đoán là 48. Trong một số báo cáo, đột biến EGFR được phát hiện ở bệnh nhân mắc hội chứng Li-Fraumeni phát triển ung thư phổi; việc mất chức năng p53 có thể giải phóng trình tự khởi động của gen EGFR và làm gen này dễ bị đột biến hơn.
Gen BRCA: Đột biến gen BRCA ở tế bào dòng mầm thường được nhắc tới trong ung thư vú và buồng trứng di truyền. Tuy nhiên, những người mang đột biến gen này cũng có nguy cơ mắc một số loại ung thư khác như phổi, thận, gan.
Gen HER2: là một gen gây ung thư trong họ EGFR. Nó biểu hiện quá mức ở bệnh nhân ung thư vú với tần suất 15-20%. Tuy nhiên, trong ung thư phổi, đột biến soma của HER2 là rất hiếm. Những đột biến như vậy được tìm thấy trong 1,6-2,5% các trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ. Chúng thường gặp ở nữ giới, châu Á, không hút thuốc, ung thư biểu mô tuyến, có liên quan đến đáp ứng điều trị kém.
Một số gen khác: HER2, YAP1, CHECK2… Các đột biến gen này ở tế bào dòng mầm cũng có liên quan tới việc hình thành ung thư phổi.
Khi nào nên nghĩ đến ung thư di truyền?
Những đặc điểm sau có thể gợi ý đến một bệnh cảnh ung thư di truyền: nhiều thành viên trong gia đình cùng mắc một loại ung thư (nhất là ung thư ít gặp); ung thư ở độ tuổi trẻ hơn (như ung thư ruột kết ở tuổi 20); một người mắc nhiều hơn một loại ung thư (như một phụ nữ cùng bị ung thư vú và ung thư buồng trứng); ung thư ở cả hai cặp cơ quan (như cả hai mắt, hai thận hoặc hai vú); ung thư ở nhiều thế hệ (như ở ông, cha và con trai)…
“Hiện nay xét nghiệm di truyền đối với ung thư phổi còn rất hạn chế. Nhiều quốc gia cũng gặp khó khăn này và chưa có cách tốt nhất để quản lý những người mang gen đột biến nhưng chưa phát sinh bệnh. CT liều thấp có thể được kết hợp trong chăm sóc và quản lý những người bệnh này, nhưng tần suất nào để có hiệu quả tối ưu là điều không chắc chắn”, BS. Đồng cho biết.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu phát hiện sớm ung thư phổi giúp tăng tỷ lệ điều trị khỏi bệnh, tăng tỷ lệ hồi phục, tăng thời gian sống và giảm chi phí y tế cho bệnh nhân và toàn xã hội.
Ngoài ra, tư vấn di truyền cho gia đình của bệnh nhân có chẩn đoán ung thư phổi vẫn là thách thức. “Không có hướng dẫn xét nghiệm di truyền nào được thiết lập chỉ dựa trên tiền sử gia đình có người mắc ung thư phổi, trừ khi những trường hợp này đã đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn của một hội chứng di truyền đã biết. Tuy nhiên, phần lớn các đột biến gen gây ung thư phát sinh trong quá trình sống của mỗi người và không di truyền cho thế hệ sau. Một người có người thân đã mắc ung thư phổi thì nguy cơ người đó mắc ung thư phổi di truyền vẫn rất thấp. Dù vậy người đó vẫn nên cung cấp thông tin này cho bác sĩ để có những tư vấn phù hợp nhất trong việc sàng lọc”, BS. Đồng lưu ý.
Theo khuyến cáo việc sàng lọc được chỉ định cho người có nguy cơ mắc ung thư phổi cao, bao gồm trong độ tuổi 55 - 74 có tiền sử hút thuốc từ trên 30 bao/năm, hoặc người đã bỏ thuốc lá trong vòng 15 năm. Ở nhóm tuổi ≥ 50, có hút thuốc trên 20 bao/năm và có một trong các yếu tố nguy cơ: tiền sử gia đình có người bị ung thư phổi, người mắc các bệnh phổi mạn tính trước đó (COPD, lao…), bệnh nhân đang mắc một bệnh ung thư... cũng cần phải khám sàng lọc định kỳ.
“Cũng như các loại ung thư khác, ung thư phổi ở giai đoạn đầu gần như không có triệu chứng điển hình nên rất khó nhận biết và dễ nhầm lẫn với bệnh đường hô hấp khác. Cho tới khi một số triệu chứng rõ rệt như ho dai dẳng, ho ra máu, khó thở, đau tức ngực… thì bệnh đã ở giai đoạn muộn, việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, việc khám sàng lọc để phát hiện bệnh khi chưa có triệu chứng, nếu có bệnh cũng ở giai đoạn sớm giúp điều trị bệnh hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu phát hiện sớm ung thư phổi giúp tăng tỷ lệ điều trị khỏi bệnh, tăng tỷ lệ hồi phục, tăng thời gian sống và giảm chi phí y tế cho bệnh nhân và toàn xã hội”, BS. Đồng lưu ý.
Minh Hoàng - Tấn Khải
Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/ai-co-nguy-co-ung-thu-phoi-do-di-truyen-37547.html