AI có thể giúp thu hồi nghìn tỷ thùng dầu từ các mỏ hiện hữu
Ngành dầu mỏ nắm giữ cơ hội nghìn tỷ thùng ngay tại các mỏ hiện hữu, đủ sức đáp ứng nhu cầu toàn cầu đến năm 2050 mà không cần các phát hiện mới, theo phân tích đột phá từ Wood Mackenzie.

AI có thể giúp thu hồi nghìn tỷ thùng dầu từ các mỏ hiện hữu. (Ảnh minh họa)
“Thách thức của ngành dầu mỏ là vô cùng to lớn”, ông Andrew Latham, Phó Chủ tịch cấp cao phụ trách Nghiên cứu Năng lượng tại Wood Mackenzie, nhận định. “Tổng nhu cầu chất lỏng theo kịch bản Triển vọng Chuyển đổi Năng lượng chỉ thấp hơn một chút so với 1 nghìn tỷ thùng cho đến năm 2050. Nếu không có những thay đổi trong kế hoạch phát triển hiện tại, các mỏ đang khai thác ngày nay sẽ thiếu hụt gần 300 tỷ thùng. Trong kịch bản chuyển đổi chậm trễ, mức thiếu hụt này sẽ còn tăng thêm 50 tỷ thùng nữa”.
Phân tích độc quyền Synoptic ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của Wood Mackenzie về hiệu suất các mỏ dầu cho thấy, những mỏ hiện có vẫn chưa có dấu hiệu cạn kiệt. Tính năng Analogues mới, vận hành nhờ AI, giúp đánh giá hiệu quả và khách quan kho dữ liệu vốn đã dẫn đầu ngành của Wood Mackenzie, từ đó hé lộ những tiềm năng gia tăng khai thác từng bị bỏ qua.
Một trong những lần triển khai đầu tiên của tính năng Analogues, kết quả cho thấy việc nâng cao khả năng thu hồi tại các mỏ đang khai thác có thể mang lại thêm từ 470 tỷ đến hơn 1.000 tỷ thùng. Tiềm năng này chỉ yêu cầu áp dụng những phương pháp đã được kiểm chứng và áp dụng rộng rãi trong ngành, không cần đến các công nghệ chưa được chứng minh.
Các công ty dầu khí quốc gia kiểm soát gần 70% tiềm năng gia tăng thu hồi
Dựa trên dữ liệu độc quyền về địa chất tầng chứa, chất lượng hydrocarbon, trữ lượng tại chỗ, khả năng tiếp cận tài chính, công nghệ, chi phí cũng như các điều khoản tài chính, Wood Mackenzie ước tính các hệ số thu hồi dầu tiềm năng. Phân tích này đã xem xét hơn 30.000 mỏ trên toàn thế giới, sử dụng công nghệ máy học để xác định các mỏ tương đồng dựa trên hơn 60 tham số.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp dầu khí quốc gia (NOC) và doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát đang vận hành những mỏ chứa hơn 320 tỷ thùng, có tiềm năng gia tăng thu hồi nếu đạt mức hệ số thu hồi thuộc nhóm 25% tứ phân vị cao nhất (top-quartile), và có thể lên tới 700 tỷ thùng theo tiêu chuẩn “tốt nhất trong ngành” - chiếm gần 70% cơ hội toàn cầu.
Iran, Venezuela, Iraq và Nga nổi bật với tiềm năng gia tăng thu hồi cao nhất trong số các quốc gia. Ngược lại, các tập đoàn dầu khí quốc tế, dù vận hành những mỏ có chất lượng trên mức trung bình, chỉ kiểm soát khoảng 6% tiềm năng gia tăng toàn cầu do đã đạt hiệu suất thu hồi từ trước.
“Tương lai nguồn cung dầu sẽ ngày càng tập trung vào các mỏ trên đất liền và do NOC vận hành”, ông Latham cho biết. “Các tập đoàn dầu khí đã chứng minh được khả năng thu hồi vượt trội, nhưng chính họ lại trở thành nạn nhân của thành công này, khi danh mục đầu tư còn lại gần như không còn nhiều dư địa để cải thiện”.
Hợp tác công nghệ - Chìa khóa để khai mở trữ lượng
Phân tích cho thấy có sự lệch pha đáng kể giữa các cơ hội và năng lực chuyên môn. Hiện tại, các tập đoàn dầu khí quốc gia (NOC) chỉ đạt hệ số thu hồi thấp hơn một chút so với mức trung bình ngành là 29%, dù đang vận hành những mỏ có tiềm năng địa chất để đạt mức hiệu suất “tốt nhất trong ngành” là 39%. Khoảng cách hiệu suất này mở ra cơ hội lớn cho các tập đoàn dầu khí quốc tế và các nhà cung cấp dịch vụ thiết lập quan hệ hợp tác sâu rộng hơn với doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, mức độ thành công còn phụ thuộc vào cách NOC cải thiện khả năng tiếp cận công nghệ và vốn, đồng thời đưa ra các điều khoản thương mại hấp dẫn cho đối tác quốc tế. Hiện tại, cơ hội tiềm năng tại các mỏ đang khai thác vượt xa nguồn vốn sẵn có. Do đó, các chính phủ muốn tối ưu hóa nguồn tài nguyên cần thiết cho các chính sách ưu đãi để thu hút những nhà điều hành tốt nhất. Trong bối cảnh này, các tập đoàn quốc tế có tiềm lực tài chính mạnh được đặt vào vị thế thuận lợi để gia tăng giá trị thông qua các quan hệ đối tác chiến lược.
AI thay đổi cách phân tích tiềm năng gia tăng trữ lượng dầu mỏ
Bằng cách phân tích thành phần đá, độ rỗng, trọng lực và độ nhớt của dầu, các điều khoản tài chính cũng như chi phí phát triển, tính năng Analogues ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của Wood Mackenzie xếp hạng các mỏ có mức độ tương đồng dựa trên điểm số học máy.
Phương pháp này xác định bốn kịch bản trữ lượng cho hơn 2.500 mỏ dầu truyền thống, từ mức trữ lượng cao nhất theo kế hoạch hiện tại đến tiềm năng “tốt nhất trong ngành” dựa trên các mỏ tương đồng với hiệu suất vượt trội. Cách tiếp cận khách quan này cung cấp những bài học được đúc kết từ những mỏ thực sự tương đồng, thay vì chỉ dừng lại ở việc so sánh bề ngoài.
Tiềm năng gia tăng gần như hoàn toàn tập trung ở các mỏ trên đất liền và vùng nước nông, chiếm lần lượt 63% và 31% cơ hội “tốt nhất trong ngành”. Ngược lại, các mỏ nước sâu – vốn chủ yếu do những tập đoàn có tiềm lực tài chính mạnh và khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến vận hành - chỉ nắm giữ chưa đến 6% tiềm năng còn lại.
Đáp ứng nhu cầu mà không cần phát hiện mỏ dầu mới
Những phát hiện này thách thức quan niệm truyền thống về vai trò của các mỏ dầu mới. Từ thập niên 1980, ngành công nghiệp dầu mỏ đã đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng chủ yếu thông qua việc điều chỉnh tăng trữ lượng tại các mỏ hiện hữu, thay vì các phát hiện mới. Khoảng cách giữa lượng dầu phát hiện và lượng dầu khai thác được mở rộng qua từng thập kỷ.
Hoạt động thăm dò sẽ tiếp tục mang lại giá trị khi tìm ra các nguồn tài nguyên có lợi thế, đủ sức thay thế những thùng dầu chi phí cao hoặc nhiều bất lợi khác. Tuy nhiên, các phát hiện mới đơn thuần sẽ không thể thu hẹp khoảng cách quá lớn này.
Hiện nay, ngành dầu mỏ vẫn nắm giữ gần 2 nghìn tỷ thùng tài nguyên chưa phát triển tại các dự án xanh, nhưng chỉ khoảng 10% trong số đó được đánh giá là khả thi về mặt thương mại trong điều kiện hiện tại. Phần lớn nguồn tài nguyên còn lại sẽ bị “mắc kẹt” do những hạn chế về kinh tế hoặc kỹ thuật.
“An ninh nguồn cung không nhất thiết phải phụ thuộc vào những kết quả thăm dò khó lường hay các công nghệ chưa được kiểm chứng”, bản phân tích kết luận. “Các mỏ hiện hữu và những phương pháp thu hồi đã được chứng minh có thể đáp ứng thách thức, miễn là có quan hệ hợp tác và cách tiếp cận đầu tư phù hợp”.
Việc đạt được hiệu suất nhóm 25% trên toàn ngành sẽ giúp nâng hệ số thu hồi trung bình từ 29% lên 34%, bổ sung thêm 470 tỷ thùng trữ lượng và về cơ bản định hình lại triển vọng an ninh năng lượng toàn cầu.
“Cải thiện hệ số thu hồi sẽ là yếu tố then chốt để đáp ứng nhu cầu dầu trong tương lai, bởi khó có thể tìm đủ các mỏ mới để bù đắp hiện tượng suy giảm tự nhiên của nguồn cung hiện tại”, ông Latham kết luận. “Việc ứng dụng AI để đánh giá tiềm năng các mỏ hiện hữu và xác định mức độ thế giới cần tới các mỏ mới trong tương lai là một bước tiến đáng kể so với các phương pháp so sánh truyền thống vốn dựa vào việc lọc dữ liệu và thường dẫn đến kết quả thiên lệch”.