AI tạo sinh hỗ trợ hay cản trở sự phát triển xã hội của người trẻ?
Trong bối cảnh các công cụ AI tạo sinh ngày càng dễ tiếp cận ở cả trường lẫn nhà, Tiến sĩ Gordon Ingram và Thạc sĩ Vũ Bích Phượng (giảng viên ngành Tâm lý học tại Đại học RMIT) cho rằng chúng ta cần quan tâm thảo luận nhiều hơn về tác động của việc tương tác với chatbot AI và bạn ảo lên tâm lý của người trẻ.
AI tạo sinh và bạn đồng hành AI ngày càng phổ biến ở người trẻ
Trẻ em và thanh thiếu niên hiện dành nhiều thời gian lên mạng hơn bao giờ hết. Trên toàn cầu, ước tính thanh thiếu niên dành khoảng 7,5 giờ trước màn hình mỗi ngày và gần 50% trẻ lên mạng liên tục trong ngày. Còn tại Việt Nam, 89% trẻ em và thanh thiếu niên sử dụng Internet với thời gian trung bình 5-7 tiếng mỗi ngày.
Cha mẹ và giáo viên vẫn đang phải thích nghi với sự gia tăng thời gian sử dụng thiết bị điện tử và ảnh hưởng của mạng xã hội như TikTok, Instagram và YouTube đến đời sống con trẻ. Nhưng gần đây, nhiều xu hướng mới đã nhanh chóng xuất hiện do sự phát triển của công nghệ AI.
Thanh thiếu niên đang thử nghiệm ChatGPT để hỗ trợ làm bài tập về nhà, chơi đùa, giải quyết các vấn đề xã hội trong cuộc sống, hoặc đơn giản là trò chuyện khi cảm thấy cô đơn. Một số trẻ có thể thích trò chuyện với AI hơn là với bạn bè, đặc biệt là khi phải vật lộn với những cảm xúc tiêu cực.

Trẻ em và thanh thiếu niên hiện dành nhiều thời gian trên mạng internet hơn bao giờ hết. (Hình: Unsplash)
Một số người trẻ cũng đang tiến sâu hơn với các ứng dụng bạn đồng hành AI. Các nền tảng như Replika hoặc Character.ai được tiếp thị cho thanh thiếu niên như những “người bạn” vui tươi, thông minh và đầy lòng cảm thông. Một số ứng dụng như CrushOn.AI và DreamGF (một chatbot đóng vai bạn gái AI), cũng nêu bật tính hấp dẫn của việc thử nghiệm trò chuyện lãng mạn hoặc tình dục.
“Cũng giống như mạng xã hội, những cách sử dụng AI mới này đặt ra câu hỏi lớn cho các bậc cha mẹ về khả năng kiểm soát các nội dung mà con có thể truy cập”, Tiến sĩ Gordon Ingram, nhà tâm lý học phát triển và giảng viên cấp cao tại RMIT Việt Nam, cho biết.
Nghiên cứu nói gì về nhận thức xã hội và AI?
Nhận thức xã hội – khả năng nhận thức, xử lý và phản ứng với các kích thích xã hội liên quan đến những người khác – là một kỹ năng quan trọng mà trẻ em cần trau dồi.
“Kỹ năng này được xây dựng thông qua các tương tác trong thế giới thực và qua việc làm mẫu xã hội, khi mà trẻ em học cách diễn giải biểu cảm khuôn mặt, tiếp nhận quan điểm của người khác, giải quyết xung đột và điều chỉnh cảm xúc”, Thạc sĩ Vũ Bích Phượng, giảng viên RMIT và nhà tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, giải thích.
Trẻ nhỏ có thể gán cho các chatbot AI những đặc điểm giống người, coi chúng là đối tượng có tri giác hoặc nhận thức về mặt cảm xúc. Điều này có thể dẫn đến các tương tác xã hội một chiều, trong đó trẻ em hình thành mối liên kết cảm xúc đơn phương với AI tương tự như với các nhân vật hoạt hình hoặc người nổi tiếng. Tuy nhiên, các chatbot AI lại biết phản hồi và tương tác có ý nghĩa với người dùng. Theo cô Phượng, “điều này làm dấy lên mối lo ngại liệu những tương tác như vậy có thể thay thế cho các tương tác thật với bạn bè trong quá trình phát triển xã hội của trẻ em hay không”.
Nghiên cứu về trẻ em và thanh thiếu niên sử dụng công cụ AI hiện chủ yếu tập trung vào các ứng dụng trong giáo dục. Tuy nhiên, khi trẻ em dành nhiều thời gian tương tác với AI hơn thì câu hỏi vẫn chưa có lời giải vẫn là: Liệu những tương tác này có lợi ích cho trẻ trong việc phát triển sự đồng cảm, giải quyết xung đột và chấp nhận rủi ro trong các tình huống xã hội hay không? Đây là những kỹ năng quan trọng để duy trì mối quan hệ lành mạnh với người khác.
Ngược lại, Tiến sĩ Ingram cho rằng tương tác với AI cũng có thể trở nên “quá an toàn” nếu AI nói chuyện với con trẻ bằng giọng điệu “quá lịch sự” được mặc định sẵn, bởi nó cũng có thể tạo ra những kỳ vọng không thực tế về các mối quan hệ xã hội trong đời thực.
Ủng hộ quan điểm trên, Thạc sĩ Phượng cho rằng khi trẻ không được tương tác với bạn bè cùng trang lứa trong các tình huống mang tính thách thức, trẻ có thể có sức chịu đựng kém hơn mỗi khi đối mặt với sự khó chịu, ít kiên cường hơn khi bị từ chối hoặc thậm chí bốc đồng hơn – những đặc điểm thường thấy ở chứng lo âu và hành vi rút lui xã hội.
Cô nhận định: “Với sự bùng nổ của tương tác xã hội một chiều giữa trẻ và các công cụ AI, đây là một chủ đề cấp bách cần được nghiên cứu thêm”.
Nên giới hạn độ tuổi người dùng AI tạo sinh như thế nào?
Các nền tảng mạng xã hội như Facebook và TikTok hiện đã chính thức cấm người dùng dưới 13 tuổi tạo tài khoản sau nhiều ý kiến lo ngại về việc trẻ vị thành niên bắt gặp nội dung không phù hợp hoặc thậm chí bị người lớn thao túng và lạm dụng trên mạng xã hội. Gần đây, luật pháp Australia đã tăng độ tuổi tối thiểu lên 16 và các quốc gia khác, bao gồm cả New Zealand, có thể sớm làm theo.
Tuy nhiên, các nền tảng AI tạo sinh chưa được hạn chế nghiêm ngặt như vậy mặc dù cũng cung cấp trải nghiệm và nội dung chân thực tương tự. Các mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) và chatbot có thể dễ dàng được truy cập mà không cần xác minh độ tuổi một cách nghiêm túc.
Chúng ta có nên áp dụng giới hạn độ tuổi tương tự cho AI không? Câu trả lời của cô Phượng là: “Có, và thậm chí có thể phải nghiêm ngặt hơn”. Lý do là vì khác với mạng xã hội, những bạn đồng hành AI mô phỏng các cuộc trò chuyện qua lại và có thể ảnh hưởng sâu sắc hơn đến tâm lý của những trẻ dễ bị thao túng. Nếu không có quy định, trẻ em có thể hiểu lầm rằng mọi phản hồi của AI là phù hợp về mặt đạo đức hoặc xã hội.

(Từ trái qua phải) Tiến sĩ Gordon Ingram và Thạc sĩ Vũ Bích Phượng (Hình: RMIT)
UNESCO đã khẩn thiết kêu gọi chính phủ các nước quản lý AI tạo sinh trong trường học. Common Sense Media, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên đánh giá tính phù hợp của phương tiện truyền thông và công nghệ mới nổi đối với trẻ em, cũng khuyến nghị cấm dùng ứng dụng bạn đồng hành AI đối với người dưới 18 tuổi. Chuyên gia RMIT cũng từng bình luận về cơ chế xác minh độ tuổi của người dùng mạng xã hội.
“Chúng tôi kêu gọi cần có thêm nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức của cha mẹ và giáo viên về quy định hạn chế độ tuổi này”, cô Phượng nói.
Bên cạnh đó, trong khi các nền tảng như YouTube hoặc Facebook cho phép báo cáo nội dung không phù hợp một cách dễ dàng, thì cơ chế báo cáo của nhiều nền tảng AI tạo sinh lại chưa minh bạch đối với trẻ em và phụ huynh.
“Các nền tảng AI cần có một cơ chế báo cáo dễ nhận diện và dễ tiếp cận hơn, và giới học thuật có thể hỗ trợ bằng cách tiến hành các nghiên cứu nhằm phân tích mối quan tâm của người dùng về việc sử dụng AI, cũng như hiểu biết của họ về việc cần làm khi nhận thấy điều đáng lo ngại”, Tiến sĩ Ingram gợi ý.
Khuyến nghị dành cho phụ huynh, nhà trường và cơ quan quản lý
Để đảm bảo AI hỗ trợ thay vì cản trở sự phát triển xã hội của trẻ em, cô Phượng khuyến nghị phụ huynh nên giám sát và tương tác với con mình trong và sau khi trẻ dùng các mô hình ngôn ngữ lớn hoặc chatbot. Làm như vậy có thể giúp phụ huynh hiểu được nhận thức của con về nội dung do AI tạo ra, cung cấp hỗ trợ đầy đủ và kịp thời, đồng thời đảm bảo rằng con vẫn có tương tác với người song song với tương tác AI, qua đó giúp trẻ suy nghĩ phản biện về nội dung nhận được từ AI.
Đối với giáo viên, Tiến sĩ Ingram khuyến nghị ưu tiên các hoạt động thảo luận nhóm, chơi theo nhóm và giải quyết vấn đề hợp tác trong lớp học. AI tạo sinh có thể được giới thiệu từ bậc trung học cơ sở và chỉ trong bối cảnh hợp tác theo nhóm.
Các giảng viên RMIT đề xuất rằng các nhà hoạch định chính sách cần yêu cầu các nền tảng AI thiết kế ứng dụng phù hợp với lứa tuổi, xác minh độ tuổi và cho phép cài đặt chế độ kiểm duyệt nội dung, đảm bảo an toàn cho trẻ em. Cơ chế báo cáo nội dung có hại cũng phải có sẵn và dễ dàng truy cập.
Bên cạnh đó cũng cần có thêm hỗ trợ và tài trợ cho nghiên cứu để tập hợp các nhóm đa ngành, bao gồm các nhà tâm lý học và chuyên gia kỹ thuật, cùng tiến hành các nghiên cứu trường diễn và nghiên cứu thực nghiệm để đánh giá tác động của AI tới sự phát triển của trẻ. Những nghiên cứu này sẽ cần thiết để xây dựng các hướng dẫn quốc gia về việc sử dụng AI có đạo đức ở trường và nhà.

“Khi AI trở thành một phần trong đời sống thường nhật của trẻ em ở Việt Nam và trên toàn thế giới, chúng ta phải hành động thận trọng. Trí tuệ nhân tạo có thể là một công cụ hỗ trợ học tập đầy quyền năng nhưng không thể thay thế cho trí thông minh tự nhiên và phong phú của con người – yếu tố giúp chúng ta sống trong thế giới cảm xúc của các mối quan hệ giữa con người với nhau”, Tiến sĩ Ingram nói.
“Ngày Quốc tế Thiếu nhi năm nay là dịp để chúng ta tắt các thiết bị điện tử và bật kết nối với con. Hãy chung tay nuôi dạy một thế hệ trẻ em có sự đồng cảm, đức tính kiên cường và sự gắn kết – những đứa trẻ thích học hỏi, phát triển và kết nối với nhau hơn là với máy móc – vì sức khỏe xã hội của các con”, Thạc sĩ Phượng kết luận.