Ấm áp đôi bờ Bến Hải

Cầu Hiền Lương và sông Bến Hải nằm trong cụm di tích đôi bờ Hiền Lương ở điểm giao nhau giữa quốc lộ 1 và sông Bến Hải; phía bắc thuộc thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh; phía nam thuộc thôn Xuân Hòa, xã Trung Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Ảnh: MINH NGUYỆT

Ra đời đúng vào ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, bài thơ Đưa dâu qua cầu Bến Hải như là nhân chứng sống - bức thông điệp vẹn nguyên về khát vọng thống nhất đất nước. Một buổi đưa dâu đánh dấu mốc cho niềm vui sum họp giữa hai vùng đất Vĩnh Linh - Gio Linh nói riêng và Bắc - Nam nói chung. Niềm vui của đôi lứa hòa trong niềm vui của dân tộc. Từ tình yêu đôi uyên ương nảy mầm cho tình yêu Nam Bắc, tình yêu non nước. Không khí của lễ đưa dâu cũng là không khí ấm áp của đất nước.

Nhà thơ Cảnh Trà, tên thật là Đặng Đức Cảnh, quê ở xã Nam Hoành, huyện Nam Đàn, Nghệ An - ghi dấu ấn qua Đưa dâu qua cầu Bến Hải - một bài thơ giản dị, mộc mạc mà lại rất đặc biệt.

Tình yêu đôi lứa nảy mầm

Bài thơ mở đầu với sự hài hòa, tương giao giữa thiên nhiên và con người:

Một buổi mai nắng vàng hoa ngâu

Đám cưới đưa dâu qua cầu Bến Hải

Cầu vừa bắc xong

Sơn còn tươi rói

Đôi bờ xanh lúa mới đã ngậm đòng

Cầu Bến Hải, theo cách gọi của người dân địa phương, tức là cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải, thuộc thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thanh, huyện Vĩnh Linh. Buổi đưa dâu đi qua cầu Bến Hải vào buổi sáng đẹp: nắng vàng hoa ngâu, vào dịp đất trời giao duyên: Đôi bờ xanh lúa mới đã ngậm đòng. Màu trắng của hoa ngâu, màu vàng của nắng, màu sơn tươi rói của cây cầu hòa vào nhau nổi bật gam màu sống động của lễ đưa dâu:

Đám cưới tự nhiên như là hoa, là lá

Như là chị lấy chồng, như là tôi lấy vợ

Mà hay chưa, bỡ ngỡ như chiêm bao

...

Chân người đi rộn rịp quá người ơi!

Không chỉ là tôi, ai cũng thế, bồi hồi

Ai cũng thế, niềm vui này tột đỉnh!

Không khí tự nhiên, rộn ràng. Ai nấy đều hân hoan, bồi hồi trước niềm vui của đôi lứa. Còn cô dâu, chú rể thì lại bối rối, thẹn thùng, bâng khuâng:

Chừng vui quá nên cô dâu bối rối

Mắt thẹn thùng, chen trong đám chị em

Tóc cài hoa với chiếc áo thanh thiên

Mới nắng đó đã đỏ lừ đôi má

Chàng trai bâng khuâng tay đung đưa trong gió

Trước bức tranh rộn rịp của buổi đưa dâu, thiên nhiên như lây lan trong hạnh phúc lứa đôi:

Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau

Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu

...

Sông long lanh nước sánh đôi bờ

Du khách tham quan, tìm hiểu về cầu Hiền Lương cả cũ và mới. Ảnh: MINH NGUYỆT

Du khách tham quan, tìm hiểu về cầu Hiền Lương cả cũ và mới. Ảnh: MINH NGUYỆT

Đặc biệt hóa điều bình thường - biểu tượng của sự thống nhất

Buổi đưa dâu ở đây cũng như bao buổi đưa dâu khác trên mọi miền đất nước nhưng từ cái bình thường của một lễ đưa dâu, nhà thơ đưa vào đó nhiều điều đặc biệt. Đặc biệt ngay từ nơi xuất thân của cô dâu và chú rể: Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa Cam Lộ. Nếu Vĩnh Linh được coi là “viên kim cương đầu giới tuyến” (theo cách gọi của Nguyễn Tuân) thì đất Cùa - Cam Lộ cũng là vùng đất lịch sử (có căn cứ Tân Sở của thời vua Hàm Nghi), là nơi ghi dấu bao nỗi thương, nỗi nhớ của một thời phân cắt. Nếu Vĩnh Linh nổi tiếng với những chàng trai kiên cường thì vùng Cùa nổi tiếng là đất của những cô gái đẹp, chịu thương chịu khó. Từ hai vùng đất lịch sử này, cô dâu và chú rể trở thành tâm điểm của cả dân tộc. Họ chính là những con người đánh dấu khởi đầu cho sự gắn kết đôi bờ.

Địa điểm đưa dâu hết sức đặc biệt. Cầu Hiền Lương và sông Bến Hải, ranh giới giữa Vĩnh Linh và Gio Linh (Quảng Trị) và cũng là điểm nóng của dân tộc sau Hiệp định Genève năm 1954. Cùng một dòng sông, một cây cầu nhưng đôi bờ giới tuyến hoàn toàn khác biệt. Bom đạn ngày đêm rải xuống hai phía sông Hiền Lương, trùm lên khắp thân hình Tổ quốc. Bao nhiêu nỗi đau chia xa, mất mát, chờ đợi... đều hội tụ ở sông Bến Hải và cầu Hiền Lương:

Bước chân Hiền Lương sao chặng đường nghẹn lại

Đáo tới Bến Hải sao gác mái tình duyên…

Đó là “vết sẹo” thương tổn cụ thể nhất của dân tộc chia đôi, họ hàng chia đôi, gia đình chia đôi, tình yêu - tình bạn chia đôi... Nhát dao đau thương ấy càng làm tăng thêm nỗi thương nhớ, biệt ly đôi đường, dần dần biến thành hiểu lầm, thù hận từ hai phía cầu giới tuyến này. Khi người Mỹ tháo chạy, đất nước thống nhất, hai bờ đoàn tụ, không còn cảnh chia ly, đổ máu, không còn cảnh ngày Bắc đêm Nam, có thể xem hình ảnh đám đưa dâu qua cầu Bến Hải như một mảng da non đầu tiên vừa mới được sinh ra ngay từ vết thương của dân tộc. Từ đây, hai giới tuyến không còn cảnh chia ly, đối nghịch. Tình cảm giữa người với người trở nên thắm thiết hơn. Buổi đưa dâu trở thành hình ảnh tiêu biểu cho “Mùa xuân đầu tiên” của dân tộc: Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người. Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về. Mùa bình thường, mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu. Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông. Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông (Văn Cao).

Không gian, thời gian, địa điểm của buổi đưa dâu ấy khiến người trong cuộc cũng trở nên đặc biệt. Lấy buổi đưa dâu làm cảm hứng cho niềm vui sau ngày đoàn tụ, Cảnh Trà đã hoàn thành nhiệm vụ của một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa. Bài thơ như một bức ảnh hiếm và quý sau ngày thống nhất. Tuy nhiên, ông không chỉ là nghệ sĩ nhiếp ảnh mà còn gửi gắm vào đó niềm vui và nỗi buồn của mình. Từng chứng kiến cảnh nghẹn lại, gác mái giữa đôi bờ giới tuyến, ông nhìn họ qua cầu mà tâm trạng ngổn ngang, mà trầm tư, xao xuyến theo nhịp đi của quá khứ - hiện tại:

Nhìn lại họ qua cầu mà nước mắt rưng rưng

Mà sung sướng vui tràn như trẻ nhỏ

...

Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái

Cái buồn của quá khứ không bi lụy mà ngược lại là chất xúc tác để buổi đưa dâu càng trở nên có ý nghĩa hơn. Bây giờ, cảnh đau thương vĩnh viễn không còn diễn ra hai phía dòng sông mà hiện diện trong cảnh sum vầy đôi lứa:

Sông long lanh nước sóng sánh đôi bờ

Tiếng nói cười như chim hót sau mưa

Đưa dâu qua cầu Bến Hải được đánh giá là bài thơ hay trong số những bài thơ hay nhất của 100 số Báo Văn nghệ Giải phóng. Không đại ngôn, không kỹ thuật câu chữ, Cảnh Trà đặc biệt cái bình thường của buổi dưa dâu. Mượn tâm lý của những người tham gia trong buổi đưa dâu, nhà thơ khúc xạ sang tâm lý của đồng bào cả nước trong ngày đoàn tụ. Từ niềm vui nhỏ của đôi lứa nhân lên thành niềm vui của cả dân tộc. Từ một buổi đưa dâu, Cảnh Trà đã đưa sự kiện bình thường trở thành tài sản quý giá của văn học. Lẩy vào đó những cái đặc biệt ấy, bài thơ Đưa dâu qua cầu Bến Hải trở thành biểu tượng của sự thống nhất đất nước, biểu tượng của sự hòa hợp dân tộc.

HOÀNG THỤY ANH

Nguồn Phú Yên: http://baophuyen.vn/93/297804/am-ap-doi-bo-ben-hai.html