Ảnh hưởng của truyền thống quê hương, gia đình đối với sự hình thành tư tưởng yêu nước, cách mạng của đồng chí Lê Duẩn
Quảng Trị, vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng và sâu nặng nghĩa tình. Từ mảnh đất này, thế hệ nối tiếp thế hệ đã phát huy truyền thống, làm rạng danh quê hương, có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do cho dân tộc và trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tổng Bí thư Lê Duẩn là người con ưu tú của quê hương Quảng Trị, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, người học trò xuất sắc, gần gũi và tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc đời đồng chí là biểu tượng sáng ngời về nhân cách, tài năng và trí tuệ Việt Nam; là kết tinh những truyền thống quý báu của quê hương Quảng Trị, dòng họ và gia đình.
* HỒ ĐẠI NAM, UVTVTU, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị
1. Truyền thống yêu nước, cách mạng của quê hương, gia đình đã góp phần hun đúc nên lòng yêu nước, tình cảm trung thành vô hạn với Tổ quốc và Nhân dân ở đồng chí Lê Duẩn
Tỉnh Quảng Trị thuộc vùng Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây giáp tỉnh Savannakhet, tỉnh Salavan - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (với 179,345 km đường biên giới), phía Đông giáp Biển Đông (với chiều dài bờ biển 75 km). Tỉnh có diện tích tự nhiên là 4.737,44 km2 , dân số 638.627 người. Quảng Trị có địa thế lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra Biển Đông bao la. Với tuyến đường 9 được người Pháp khai mở từ đầu thế kỷ trước, Quảng Trị là cửa ngõ hướng ra Biển Đông của các nước trên Hành lang kinh tế Đông - Tây.
Dưới ách thống trị của phong kiến phương Bắc, Nhân dân Quảng Trị đã không ngừng nổi dậy đấu tranh vũ trang để giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 40 “Dân ở Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng” vào cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo, đánh cho quân đô hộ nhà Hán phải “kinh hồn bạt vía”. Đến thế kỷ VIII, trong cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan chống ách đô hộ nhà Đường, Nhân dân Quảng Trị cũng góp nhiều công sức.
Thời phong kiến, Quảng Trị là vùng đất luôn đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Thế kỷ XIII, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên, Quảng Trị là một trong những tiền đồn phên dậu ở phía Nam. Nhân dân đã tích cực, hăng hái tham gia chiến đấu chống lại mũi tiến công của tướng giặc Toa Đô từ Chăm Pa đánh ra, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Năm 1413, dũng tướng Đặng Dung nửa đêm chỉ huy binh lính và Nhân dân Quảng Trị đánh úp quân Minh ở sông Ái Tử (Triệu Phong - Quảng Trị ngày nay). Tướng giặc là Trương Phụ sợ hãi nhảy xuống thuyền con chạy thoát. Phát huy truyền thống đánh giặc, giữ nước của cha anh, thế kỷ XVIII, hàng ngàn người dân Quảng Trị đã gia nhập đoàn quân “Bắc tiến” của Quang Trung (Nguyễn Huệ) đập tan 29 vạn quân Thanh, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, theo lời hiệu triệu của các nhà yêu nước, Nhân dân Quảng Trị đã tích cực tham gia vào phong trào chống Pháp. Năm 1885, Tôn Thất Thuyết ngự giá vua Hàm Nghi ra căn cứ Tân Sở (Quảng Trị). Nhân dân Quảng Trị ra sức che chở, bảo vệ nhà vua và các chí sĩ trước sự truy lùng ráo riết của kẻ thù; hàng ngàn nông dân Quảng Trị đã tham gia các toán nghĩa quân giúp vua đánh giặc cứu nước. Đầu thế kỷ XX, đông đảo Nhân dân Quảng Trị tham gia đấu tranh trong phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (năm 1908), phá ngục Lao Bảo (năm 1915), khởi nghĩa của vua Duy Tân (năm 1916). Các phong trào yêu nước ở Quảng Trị tiếp tục phát triển rầm rộ đã tạo tiền đề dẫn đến sự ra đời và ảnh hưởng ngày càng lớn của chi bộ Việt Nam Cách mạng thanh niên (tháng 10/1926) - Tổ chức tiền thân của Đảng bộ tỉnh sau này.
Làng Bích La Đông, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong - quê hương đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn được xem là nơi hội tụ linh khí, quê hương của những bậc hào kiệt: “Địa chung linh khí truyền thiên cổ - Thế xuất anh tài diễn ức niên (Đất hun đúc khí thiêng toàn vẹn từ ngàn xưa - Trời sinh hào kiệt lúc nào cũng có)”. Đồng thời, cũng là vùng đất có truyền thống yêu nước nồng nàn. Từ năm 1882, nhiều con cháu của tộc họ Lê Văn cùng bà con trong làng theo Lê Hữu Thường - Thượng thư Bộ Công của triều đình Huế ra xây dựng sơn phòng (vùng Cùa - Quảng Trị) để chuẩn bị chống Pháp. Cũng trong thời gian này, Chánh Vệ úy Lê Văn Thống, Đề đốc Lê Văn Tặng đã cùng với Suất đội Phạm Cư (làng Nại Cửu) đem quân đánh chiếm thành Quảng Trị. Năm 1916, Nhân dân Triệu Đông, Triệu Thành (nay là xã Triệu Thành) dưới sự lãnh đạo của Lê Thế Vỹ, Khóa Bảo tích cực chuẩn bị hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của nhà vua yêu nước Duy Tân...
Truyền thống đánh giặc, giữ nước của các thế hệ cha anh đi trước, những tấm gương quả cảm, quên mình vì nước, vì dân trên mảnh đất Quảng Trị và quê hương Triệu Thành đã in sâu vào tâm trí, khơi dậy và nuôi dưỡng lòng yêu nước, thương dân của đồng chí Lê Duẩn.
Noi gương cha anh đi trước, đồng chí Lê Duẩn đã sớm dấn thân vào con đường đấu tranh để cứu nước, cứu dân. Năm 1925, đồng chí đã hòa mình vào không khí đấu tranh sôi nổi của Nhân dân tại Huế đòi giảm án tử hình cho nhà yêu nước Phan Bội Châu. Cũng trong năm này, đồng chí quyết định tạm gác sự nghiệp học hành, rời quê hương để thực hiện hoài bão của một người thanh niên yêu nước. Năm 1926, đồng chí làm nhân viên hỏa xa Đà Nẵng; hằng ngày, hằng giờ chứng kiến sự ngang ngược, áp bức, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp đối với những người lao động làm thuê càng nung nấu thêm lòng căm phẫn và quyết tâm “đánh Tây” của đồng chí. Thời gian này, vừa làm việc, đồng chí vừa tiếp xúc và giác ngộ tinh thần yêu nước cho nhiều thanh niên, trí thức.
Theo hồi ký của đồng chí Võ Nghiêm, lúc đó là Tổ trưởng Tổ kế toán ở hỏa xa Đà Nẵng (tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng): “Một lần đang đi bộ trên bờ sông Hàn, anh Nhuận xúc động nắm tay tôi, nói: Dân mình cực khổ quá. Bọn Tây cai trị làm trời, làm đất. Biết anh nói đúng, nhưng tôi vẫn hỏi: Dân mình yếu đuối, làm gì nổi? Anh nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng đanh thép: Chỉ có cách đánh đuổi nó đi”.
Năm 1928, đồng chí rời Đà Nẵng ra Hà Nội làm nhân viên thư ký Đề pô thuộc Sở Hỏa xa Đông Dương. Cuối năm 1928, đồng chí chính thức gia nhập tổ chức Tân Việt Cách mạng đảng. Thời gian này, nhờ tiếp cận với nhiều tài liệu của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên như “Đường cách mệnh”, báo Thanh Niên nên đồng chí đã lý giải được nhiều trăn trở và tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Năm 1929, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, được phân công công tác vận động, tuyên truyền anh em công nhân ngành đường sắt. Đồng chí đã gây dựng nhiều cơ sở và phát động đấu tranh trong giới thợ thuyền, thanh niên, bà con lao động, hòa mình vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Hà Nội.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí được tiếp nhận về sinh hoạt Đảng tại Thành ủy Hà Nội. Từ một thanh niên giàu lòng yêu quê hương, đất nước, đồng chí Lê Duẩn đã trở thành một người chiến sĩ cộng sản. Tháng 10/1930, đồng chí nhận nhiệm vụ Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ.
Trong mỗi nhiệm vụ, trên mỗi chặng đường đấu tranh, lòng yêu nước và những phẩm chất tốt đẹp, truyền thống quê hương càng được tôi luyện và tỏa sáng rực rỡ; đó là thái độ đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; tinh thần sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để kề vai sát cánh, lãnh đạo quân, dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ; là ý chí, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; là khát khao xây dựng nước Việt Nam ấm no, giàu mạnh, vươn tầm thế giới.
2. Phẩm chất kiên cường của con người Quảng Trị qua hàng nghìn năm lịch sử đã góp phần hình thành nên tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất ở đồng chí Lê Duẩn
Trong lịch sử tồn tại và phát triển, Quảng Trị được xem là trọng trấn, là trấn biên phía Nam của Tổ quốc, là tiêu điểm ác liệt của các cuộc kháng chiến chống giặc xâm lăng, là ranh giới của các cuộc chia cắt Bắc - Nam. Ít có mảnh đất nào phải chịu nhiều xáo trộn, biến động, chia cắt và là chiến trường khốc liệt của chiến tranh như Quảng Trị. Mặt khác, Quảng Trị được xem là vùng “Ô châu ác địa” - nơi có điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt. Hoàn cảnh đã tôi luyện nên con người Quảng Trị ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và bản lĩnh không bao giờ chịu khuất phục trước mọi khó khăn để vươn lên làm chủ cuộc sống.
Mang trong mình khí chất đặc trưng của con người Quảng Trị, cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Duẩn là tấm gương về bản lĩnh, ý chí sắt đá, sự thủy chung, tinh thần cách mạng kiên trung, bất khuất.
Năm 1931, thực dân Pháp bắt giam và kết án đồng chí 20 năm tù cầm cố, lưu đày đến các nhà tù Sơn La, Côn Đảo. Vượt lên mọi cực hình, đồng chí luôn bền gan, quyết chí giữ vững ý chí, lập trường và niềm tin cách mạng; cùng với đồng chí, đồng đội nêu cao khí phách trung dũng, kiên cường đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù, giữ trọn khí tiết của người cộng sản chân chính. Lần thứ hai, vào cuối năm 1940, địch bắt và đày đồng chí ra nhà tù Côn Đảo. Tại “địa ngục trần gian” này, thực dân Pháp “đối xử với tù nhân hà khắc không sao kể hết được”, phần đông tù nhân đều chết dần, chết mòn vì những đợt đòn tra tấn, vì bệnh tật, kiệt sức, có ngày đến vài chục người chết, bản thân đồng chí bị chúng tra khảo đến “chết đi sống lại” nhiều lần; nhưng kẻ thù càng hung bạo, đồng chí càng trở nên mạnh mẽ, kiên cường để chiến đấu và chiến thắng sự tàn bạo của của chúng.
Không chỉ được tôi luyện trong sự khắc nghiệt của nhà tù đế quốc, tinh thần cách mạng kiên trung, bất khuất của đồng chí Lê Duẩn còn được thử thách và chứng minh qua thực tiễn cách mạng. Năm 1936, sau khi được trả tự do, đồng chí đã vượt qua sự truy lùng ráo riết của địch, lăn lộn, chỉ đạo phong trào đấu tranh, gây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng; kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu, tiến hành cuộc tập dượt lớn nhằm tiến tới cao trào cứu nước 1939 -1945, giành chính quyền về tay Nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám. Trong những năm tháng đồng cam cộng khổ cùng với Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống Pháp xâm lược, đồng chí đã đối mặt với nhiều hiểm nguy, gian khổ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phẩm chất kiên trung, bất khuất của đồng chí được biểu hiện rõ nét nhất ở tư tưởng cách mạng tiến công, bản lĩnh, ý chí sắt đá, quyết tâm cao nhất “dám đánh Mỹ và thắng Mỹ”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1965, trong cuộc họp với ba lãnh đạo Liên Xô là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Brêgiơnép, Chủ tịch Xô Viết tối cao Podgonưi, Thủ tướng Koxưgin về tình hình cuộc chiến với Mỹ của Việt Nam, Podgonưi đã phản đối gay gắt việc Việt Nam tiến hành chiến tranh vũ trang để thống nhất đất nước vì “Mỹ rất mạnh, Việt Nam không thể thắng Mỹ”, đồng chí đã trả lời kiên quyết: “Nhất định chúng tôi phải đánh Mỹ và thắng Mỹ. Nếu các đồng chí ủng hộ, có thể chúng tôi chỉ chết có một triệu người. Nếu các đồng chí không ủng hộ, chúng tôi có thể hy sinh nhiều người hơn nữa. Nhưng chúng tôi phải thực hiện được mục tiêu cuối cùng là thống nhất đất nước”.
Với quyết tâm, ý chí sắt đá đó, cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày đất nước thống nhất, với bản lĩnh, ý chí và sự kiên cường của nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí đã có những quyết sách sáng suốt để cùng với Đảng lãnh đạo đất nước vượt lên những thời điểm khó khăn nhất, vững bước đi lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
3. Truyền thống lao động cần cù, trọng tình, trọng nghĩa của quê hương, gia đình đã góp phần hình thành nên ở đồng chí Lê Duẩn con người của “lao động, tình thương và lẽ phải”
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cuộc sống luôn vất vả, gian truân đã làm cho con người Quảng Trị thêm cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động sản xuất để làm chủ cuộc sống, chinh phục tự nhiên. Trong các cuộc di dân dưới các triều đại phong kiến, các bậc khai khẩn, khai canh vùng đất Quảng Trị thuộc nhiều dòng họ bằng sự cần cù, chịu thương, chịu khó đã dày công khai sơn phá thạch, gây dựng cuộc sống, để lại cho con cháu đời sau những vùng đất phì nhiêu, màu mỡ, làm kế mưu sinh. Các thế hệ người Quảng Trị cứ thế nối tiếp nhau phát huy truyền thống lao động của cha ông và biến nó trở thành nét đẹp, cốt cách của chính con người Quảng Trị. Cùng với lao động, người Quảng Trị có truyền thống trọng chính nghĩa, giàu tình thương yêu, luôn đoàn kết, đùm bọc nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn.
Làng Bích La, quê hương của đồng chí Lê Duẩn là một làng có lịch sử lâu đời. Tộc họ Lê Văn là một trong 15 tộc họ đồng khai khẩn đã góp phần không nhỏ vào lịch sử dựng nghiệp ở làng ngay từ buổi ban đầu. Gần 5 thế kỷ từ ngày khai hoang, lập làng, lập xã, vừa chống chọi với thiên tai, địch họa, vừa tạo dựng cơ đồ, người dân Bích La nói chung, các thế hệ con cháu trong tộc họ Lê Văn nói riêng đã vun đắp nên nhiều truyền thống tốt đẹp được lưu giữ và phát triển từ đời này sang đời khác như: Truyền thống lao động cần cù, chịu thương, chịu khó; trọng nghĩa, trọng tình; đoàn kết, tương thân, tương ái... Nền tảng của truyền thống đó chính là cái tâm, cái đức được các thế hệ nối tiếp giữ gìn và phát triển. Các vị tiền nhân của tộc họ Lê Văn khi đỗ đạt ra làm quan đều nổi tiếng là những người thương yêu dân chúng, làm gương cho các thế hệ con cháu đời sau học tập.
Chợ Sãi (làng Hậu Kiên) nơi nuôi dưỡng đồng chí Lê Duẩn từ thuở bé, dân làng rất mực thương yêu, đùm bọc nhau. Nét nổi bật của con người Hậu Kiên là sống thủy chung, tình nghĩa, nhà ai có việc gì, tất cả cùng lo. Thân phụ đồng chí là ông Lê Văn Hiệp, từng học chữ nho và đỗ khóa sinh nhưng ông không theo con đường quan nghiệp mà mở xưởng mộc nhỏ và cửa hàng bán đồ gỗ ở chợ Sãi. Ông Hiệp là một người cha luôn chăm lo cho cuộc sống của gia đình, chăm chỉ, chịu khó làm ăn, quan tâm giáo dục con cái. Bởi vậy, đồng chí sớm ý thức ý nghĩa và giá trị của lao động đối với mỗi một con người. Mẹ đồng chí là một người phụ nữ mẫu mực, hiền lành, phúc hậu, hay giúp đỡ người nghèo và có tình thương con vô hạn. Tình thương và cách giáo dục con của người mẹ đã dần dần bồi đắp nên ở đồng chí tình yêu thương đối với con người, nhất là những người thống khổ.
Được nuôi dưỡng bởi truyền thống quê hương, làng xóm, dòng họ, gia đình nên ngay từ thuở thiếu niên cho đến khi trưởng thành và sau này giữ những chức vụ chủ chốt của Đảng, đồng chí đã tỏ rõ là một người yêu lao động, trọng chính nghĩa và giàu tình thương. Với đồng chí Lê Duẩn yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải, đó là phẩm chất cơ bản cần được bồi dưỡng và hoàn thiện để con người có thể làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, tiếp cận và chiếm lĩnh được “cái Đúng, cái Tốt, cái Đẹp” của cuộc sống. Đồng chí thường căn dặn: Con người sống là phải lao động, có tình thương và lẽ phải. Đó là đạo lý cuộc sống.
Từ những ngày đầu rời mảnh đất quê hương đi làm cách mạng, hành trang mà đồng chí mang theo là lý tưởng của người thanh niên yêu nước, thương nòi; đồng chí đã tự nuôi sống bản thân để thực hiện hoài bão cứu nước bằng lao động chân chính. Sau này, trên con đường hoạt động cách mạng, đồng chí là một tấm gương về lao động và không ngừng lao động sáng tạo. Trong những năm tháng chịu cảnh tù đày dưới hệ thống nhà tù đế quốc, đồng chí đã vượt qua sự tra tấn, khủng bố khốc liệt của kẻ thù, “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, tự học, rèn luyện để trở thành một người cộng sản có trí tuệ lớn, tài năng lớn.
Trong thời gian hoạt động ở Nam Bộ, đồng chí là một “ngọn đèn hai trăm nến”, luôn “cháy hết công suất” để lãnh đạo cách mạng miền Nam. Đặc biệt, với khả năng lao động, sáng tạo phi thường, đồng chí đã dự thảo “Đề cương cách mạng miền Nam” là bước khởi đầu để hình thành Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 lịch sử - Nghị quyết tạo ra bước ngoặt quan trọng của cách mạng miền Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, với cương vị là lãnh đạo chủ chốt của Đảng, đồng chí đã làm việc không ngừng để cùng với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại, lãnh đạo Nhân dân làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày giải phóng, đất nước phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách, đồng chí lao động cho đến hơi thở cuối cùng để lãnh đạo đất nước vững bước đi lên.
Thuở bé, tình thương của đồng chí khởi nguồn từ tình cảm hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương gia đình, bà con lối xóm. Những năm tháng hoạt động cách mạng, tình thương của đồng chí được nâng lên thành tình cảm sâu nặng với đồng chí, đồng đội, đồng bào; là tình cảm, trách nhiệm thiêng liêng đối với Tổ quốc, Nhân dân. Sau ngày đất nước thống nhất, “tình thương và lẽ phải” với đồng chí là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc thực sự cho Nhân dân.
Đồng chí nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “... trước hết phải lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, con em phải được đến trường, phải lo cho tất cả mọi người không phân biệt “bên này bên kia” vì ai cũng là công dân của nước Việt”. Trong rất nhiều bài viết, bài nói chuyện, đồng chí thường nhấn mạnh: “Sức mạnh của người cách mạng là ở lý tưởng của mình, đồng thời còn ở khát vọng về tình thương đối với đồng bào mình, nghĩa là yêu nước phải gắn liền với thương dân, phải có tình thương và trách nhiệm đối với dân”. Năm 1978, Trung Quốc thông báo không bán bông cho chúng ta nữa nên sản lượng bông sẽ giảm đi một nửa, do vậy Chính phủ chỉ lo được cho dân hai năm một bộ quần áo, đồng chí Lê Duẩn kiên quyết chỉ đạo các đồng chí trong Chính phủ “phải lo đủ cho người dân mỗi năm một bộ áo quần mới”. Đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình thương của người đứng đầu đất nước đối với Nhân dân.
Ở một khía cạnh khác, “tình thương và lẽ phải” đối với đồng chí còn là trân trọng nghĩa tình, sống có trước có sau. Trong tình cảm của mình, đồng chí luôn dành cho đồng bào miền Nam lòng biết ơn sâu sắc. Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí nhiều lần trở lại miền Nam, thăm các gia đình cơ sở ở Cà Mau, Rạch Giá, Bến Tre... Đồng chí luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên miền Nam phải chăm lo cho cuộc sống của bà con, nhất là những gia đình dám xả thân vì cách mạng. Với quê hương Quảng Trị, đồng chí luôn dành những tình cảm sâu nặng: “Đối với tất cả chúng ta, quê hương biết bao tình sâu nghĩa nặng! Riêng tôi, ngoài công việc chung của cả nước, vẫn thường nghĩ đến tỉnh nhà và tự hỏi không biết đồng bào trong tỉnh từ ngày giải phóng đến nay sống như thế nào...”. Đến những giây phút cuối cùng trên giường bệnh, đồng chí vẫn là một con người đầy tình cảm, luôn hướng về lẽ phải, tình thương và trách nhiệm với dân tộc, Nhân dân.
Trong Điếu văn đọc tại lễ truy điệu đồng chí Lê Duẩn, Đảng ta đã khẳng định: “Là chiến sĩ thuộc lớp cận vệ đầu tiên của Đảng, một người học trò lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, đồng chí Lê Duẩn đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cho tự do, hạnh phúc của Nhân dân và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa… Sự sáng suốt của đồng chí thể hiện nổi bật trước những bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp”. Quê hương Quảng Trị vinh dự, tự hào là nơi hun đúc và nuôi dưỡng nhân cách cao đẹp của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn - người đã dành trọn cuộc đời của mình làm rạng danh quê hương Quảng Trị và góp phần nâng tầm vị thế của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.