Anh không là liệt sĩ vô danh

Mai Sơn len lỏi vào từng dãy mộ. Đã qua nửa giờ đồng hồ, không thấy ngôi mộ nào có tên người mà anh cần tìm.

Đi tiếp sang khu mộ phía bên trái, thấy tất cả các dãy một giống nhau như những căn nhà nhỏ không số trong các dãy phố không tên. Bỗng anh nheo mắt thấy cuối dãy mộ có một vật gì đó trắng như khăn tang đang lay động. Anh bước tới, nhận ra một phụ nữ chừng ba mươi tuổi, nắng trải lên bộ quần áo màu hoàng yến của chị trắng xóa như màu tang, hai tay chị dang rộng ôm lấy ngôi mộ.

- Xin lỗi… Hình như chị không được khỏe. Tôi có thể giúp được gì không?

Tay phải người phụ nữ vẫn cầm bó hoa hồng bạch, ngẩng lên hơi lúng túng:

- Dạ, không… Tôi không sao ạ. Cảm ơn anh!

Mai Sơn thoáng vui:

- Hình như chị là người Hà Nội?

Người phụ nữ hơi ngạc nhiên:

- Dạ… Sao anh biết ạ?

- Đơn giản là qua trang phục và giọng nói - Mai Sơn cười thân mật - Tôi là Mai Sơn, công tác ở Đoàn ca nhạc Quân đội.

Tác giả tại Nghĩa trang Liệt sỹ Đà Lạt năm 1983

Tác giả tại Nghĩa trang Liệt sỹ Đà Lạt năm 1983

Người phụ nữ cười, giơ tay ra bắt:

- Tôi là Ngọc Thủy, bác sĩ Bệnh viện 108.

Mai Sơn thân thiện:

- Tôi đang công tác ở Đà Lạt, hôm nay lên đây tìm mộ người bạn là Quang. Nhưng mà… suốt một giờ đồng hồ tìm không thấy.

- Không… thấy… ạ ?

- Chỉ còn những dãy mộ không có bia này?

Thủy ngồi xuống ngôi mộ bên cạnh, giọng lắng xuống:

- Những dãy mộ không có bia này là các liệt sĩ vô danh… Tôi đi tìm người chồng chưa cưới của tôi đang nằm trên nghĩa trang này… cũng không thấy. Không hiểu sao, tôi cảm giác như chính anh ấy nằm đây đã níu chân tôi lại.

Sơn vẻ đồng tình:

- Tôi được biết các nhà tình báo, các nhà thám tử cũng có những thành công bắt đầu từ linh cảm.

Thủy đặt lên ngôi mộ một bông hoa, nói:

- Cho dù ngôi mộ này không phải là Lâm của tôi thì tôi đã nằm chuyện trò với anh ấy suốt một giờ qua. Trong chiến tranh, tôi ở một đơn vị thanh niên xung phong phục vụ hỏa tuyến. Miền Nam giải phóng, tôi tiếp tục phục vụ mặt trận phía Tây Nam. Tôi rất hiểu người lính khi xa nhà cầm súng đi theo chiều dài của đất nước đánh giặc. Đói ăn, đói ngủ trong rừng, giãi nắng, tắm mưa, vẫn hát, vẫn cười, vẫn một lòng quyết thắng. Vậy mà… có những chiến sĩ khi ngã xuống… vẫn chưa một lần được yêu.

Mùa Xuân năm 1975, Thủy bị thương nằm ở trạm quân y tiền phương ở Xuân Lộc, thỉnh thoảng vừa ngồi khâu áo cho bệnh binh vừa ca những làn điệu quan họ Bắc Ninh, mỗi lần hát lại thấy một thanh niên bước ra khỏi lán ngồi nghe. Một buổi chiều, Thủy tới mỏm đá bauxite ngồi xem hoàng hôn ở miền Đông, người thương binh kia bỗng xuất hiện trước mặt chìa một bó hoa: “Tặng Thủy nè. Hoa của cây cao su nhưng thơm lắm. Ong rừng vẫn nhào vô hút nhụy đó”. Thủy sững người, ngập ngừng đỡ bó hoa, mỉm cười thay lời cảm ơn rồi nhích một bên chừa chỗ cho anh thương binh ngồi. Anh tên là Lâm, được sinh ở Tuyên Đức (nay là Lâm Đồng), ba và mẹ là người Bắc Ninh vào Nam từ những năm 1935 rồi làm ở đồn điền cao su trên Đăk Lăk, nhưng cực quá lại chuyển đến Tùng Nghĩa trồng café thuê cho ông chủ người Pháp ở Đà Lạt. Năm 1958, cha mẹ mới sinh ra anh. Sau ngày miền Nam giải phóng, Thủy về mặt trận phía Tây, còn Lâm ở lại miền Đông. Mùa mưa năm 1978, Thủy đang phơi quần áo thì có tiếng còi ô tô te te inh ỏi, mấy đứa ùa ra reo lên “Thủ trưởng tới” rồi tranh nhau mở cửa xe nhao nhao hỏi “Thủ trưởng, có quà mới không ạ?” Đến khi nghe tiếng hô như gào “nghiêm” đám con gái, mới tha cho thủ trưởng tự do đi vào lán xê bộ. Thủy thấy vậy không khỏi phì cười cái cảnh thủ trưởng bị “bọn nữ tiểu yêu” quấy nhiễu. Vậy mà trong công tác đứa nào cũng được khen là dũng cảm không kém phái mày râu. Đang định quay trở vào thì Thủy nhìn trân trân vào một thanh niên vừa chui trong xe ra, cô thất thanh gọi lạc giọng:

- Anh Lâm!

- Ủa! Thủy… Ngọc Thủy - ôm ghì lấy - Em!

- Ơ ơ… Người ta nhìn thấy. Thủ trưởng ngồi trong kia kìa.

- Anh. Sao bây giờ anh vẫn còn xanh quá.

- Bao giờ mặt trận hết tiếng súng, bệnh sốt rét cũng hết luôn mà.

- Địa chỉ của anh thế nào? Ở đây có lâu không?

- Những giây phút chúng ta gặp nhau thế này, hiếm hoi quá. Em hát đi, làn điệu của tụi mình đó.

Thủy khe khẽ hát:

- “Người ơi người ở đừng về… Người ơi… Người ở… đừng về. Người về, em vẫn í I ì í… có… mấy khóc á a thầm… ”.

- Sau này về Hà Nội, em tính làm gì?

- Em sẽ học ngành y để chữa cho anh hết bệnh sốt rét.

- Thủy à. Đây là…

- Gì vậy anh?

- Nhẫn tơ hồng làm bằng cỏ… là nhẫn đính hôn. Đưa tay đây - Nhẹ nhàng đeo vào tay Thủy - Em đồng ý chứ?

- Em sẽ đợi anh - Lấy trong túi áo mảnh giấy - Đây là địa chỉ của em ở Hà Nội. Nhưng còn anh nay đây mai đó, làm sao em gặp được anh?

Lâm không nói gì, lẳng lặng lấy cây viết ghi địa chỉ vào lòng bàn tay Thủy. Tiếng còi xe te te mấy tiếng. Lâm đứng lên :

- Địa chỉ của ba má anh đó. Thôi, anh đi nha.

Không ngờ đó là lần gặp cuối cùng của Thủy với Lâm.

Ngọc Thủy ngẹn ngào dừng kể. Mai Sơn trầm giọng:

- Tôi và Quang gặp nhau có hai lần, nhưng Quang đã gây ấn tượng rất sâu sắc trong tôi.

- Bạn anh ở đơn vị nào ạ? - Ngọc Thủy hỏi.

- Công an.

- Công an? - Thủy ngạc nhiên.

Hạ tuần tháng Bảy, năm 80, Mai Sơn cùng đơn vị đi lưu diễn một số tỉnh cao nguyên, sau khi diễn ở Đà Lạt, đoàn đi phục vụ tại một xã ở huyện Lạc Dương. Ủy ban xã bố trí cho đoàn ở tạm dãy nhà bỏ trống sát trụ sở công an nằm ráp ranh cánh rừng, không có điện, không có đài phát thanh. Suốt mấy ngày ở đó, trời mưa dầm dề, không biểu diễn được buổi nào ở ngoài trời. Một buổi tối, Mai Sơn đang ngồi thổi sáo thì có tiếng gõ cửa, một thanh niên chừng ba mươi tuổi ngó đầu vào: - Tôi là Quang ở phòng bên nghe anh thổi sáo hay quá. Tôi vào được không ?

- Mời vào. Mưa suốt, buồn quá.

- Đang mùa mưa mà. Có ngày mưa hai bốn trên hai bốn giờ đó anh. Anh chơi cho tôi nghe bài “Người ở đừng về” được không ?

- Anh ở vùng sơn cước mà cũng thích quan họ Bắc Ninh à? – Mai Sơn dướn cao cặp lông mày hỏi.

- Đó là giai điệu tình yêu của tụi tôi đó.

- Á à… Bồ của anh là người miền Bắc hay hát bài ấy phải không?

- Mỗi lần nhớ cô ấy, tôi lại hát, nhưng hát hoài hổng được.

Bên ngoài cửa sổ, một bàn tay đen mốc thếch đang xoa lên ô cửa kính mờ hơi nước, hiện ra khuôn mặt râu tóc rậm rì đang nâng họng súng ngang tầm mắt. Mai Sơn nhìn qua ánh đèn dầu, nhíu mắt lẩm bẩm:

- Ai ngoài cửa sổ thế nhỉ ?

Một tiếng nổ “đoành!” lẫn tiếng kính vỡ rơi loảng xoảng. Quang đè đầu Sơn xuống nói nhanh:

- Nằm xuống ! Fulro đó. Anh không được ra ngoài. - Vừa bật nắp bao súng bên hông vừa lao ra cửa. - Tên Fulro khốn kiếp. Trời mưa cũng quậy!

Quang lao hút theo tên Fulro hô “Đứng lại!” nhắm súng vào bóng đen phía trước. Nghe tiếng hô, một số anh em trong công an xã cũng bủa ra thành thế gọng kìm bao vây tên Fulro, hắn bị Quang bắn vào chân không thoát kịp đành đứng lại đặt hai tay lên đầu, miệng nói hổn hển:

- Tôi đau quá… Đừng bắn. Tôi làm theo lệnh thôi mà - Hắn nói lơ lớ tiếng Kinh.

Đích thân ông Nghi là trưởng công an xã hỏi cung. Hắn khai, vì Quang đã thu phục nhiều lính Fulro trở về bản lại còn vận động bà con không vô rừng tiếp tế cho chúng nên “Tư lệnh trưởng” của hắn lệnh cho hắn đi ám sát thiếu úy Quang và treo giải thưởng nếu giết được sẽ được đi Mỹ.

Sáng hôm sau đoàn của Mai Sơn trở lại Đà Lạt chuẩn bị phục vụ hội nghị kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ của tỉnh, tiết mục của Mai Sơn độc tấu sáo trúc bài “Tấm áo mẹ vá năm xưa”. Trước giờ biểu diễn, anh chuẩn bị nhạc cụ thì không thấy cây sáo đâu. Hoảng quá, anh định tìm đoàn trưởng báo cáo và xin đổi tiết mục, đang loanh quanh sau cánh gà thì có tiếng gọi dè dặt:

- Anh Mai Sơn.

- Kìa, anh Quang. Tới xem ca nhạc à?

- Hôm qua anh để quên cái này - Quang chìa trước mặt cây sáo.

- Ôi! Cây sáo trúc! - Mai Sơn ôm chầm lấy Quang khóc - Anh quả là tuyệt vời, ngọn gió kỳ diệu nào đưa anh tới đây đúng lúc quá.

- Coi kìa, phải con nít đâu mà nước mắt, nước mũi kỳ vậy.

- Bạn ở đây coi bọn mình biểu diễn luôn nhé. Mấy hôm trước mưa tầm tã chẳng diễn được đêm nào cho các bạn xem.

- Các anh đã đờn ca hàng chục bài cho tụi tôi nghe cũng đã lắm rồi. Bây giờ mình phải về liền - bắt tay Sơn rồi quay đi.

- Không. “Về liền” là sao ?

- Đêm nay mình phải trực.

- Biết bao giờ mình gặp nhau nữa? Xem xong bạn phóng xe về chừng nửa giờ là tới đơn vị mà.

- Mình chạy xe tới hồ Suối Vàng thì hư phải gởi nhà dân rồi chạy bộ. Bây giờ chạy hết tốc lực cũng phải giờ rưỡi mới có mặt ở đơn vị.

- Tiếp tục đi bộ sao?

- Lội bộ, chẳng cách nào hơn. Thôi, tạm biệt.

Mai Sơn khẽ cất giọng: “Người ơi, người ở đừng về…”.

- Trời đất. Cậu hát thế này là khó chia tay lắm đó. Thôi mình đi nhé.

- Khoan đã. Đơn vị cậu gần rừng, cậu đi đâu cũng phải cẩn thận nhé. Nguy hiểm lắm - Mai Sơn nói với theo.

- Đây là cuộc chiến, nếu sợ nguy hiểm thì mình về nhà đuổi gà cho em gái còn hơn - Quang ngoái lại mỉm cười nói.

Một người đàn ông đang bước lên từ bậc thang một cách nặng nhọc nhưng không nghỉ nửa chừng.

Ngọc Thủy nói với Mai Sơn:

- Anh nhìn kìa. Ở đây không chỉ có hai chúng ta.

- Người này bước đi rất quả quyết - Mai Sơn nói - Chắc từng là cán bộ, nhưng nét mặt khô khan quá.

Tới nơi, người đàn ông ngồi tựa vào cái lư đồng dưới chân tượng đài lấy thuốc ra hút. Thủy và Sơn cùng bước tới chào “Chào chú ạ”.

- Ủa! Chào anh chị. Hà hà… Lần này lên đây tôi không trơ trọi đơn độc nữa rồi - Ông nhìn khói thuốc với giọng tâm trạng - Tôi chọn ngày thường lên đây để tránh đông người. Cứ lên thăm cậu ấy là lòng tôi lại tan nát như mất một đứa con.

- Khi mất một người tri kỷ, lòng ai cũng vậy đó chú - Sơn nói.

- Cũng có sự mất mát không gì đắp đổi được ạ - Thủy thở dài.

- Sao giọng nói của chị nghe đau xót như nói thay tâm trạng của tôi lúc này?

- Chú ạ. Cháu thấy chú quen quá.

- Không chừng ta từng nhậu với nhau ở đâu rồi - Ông ngước nhìn Mai Sơn - Á à… Anh mang lon trung tá văn công, nói giọng Bắc thì không quen nhau rồi.

- Cháu đã từng lên Lâm Đồng biểu diễn ở một số huyện vùng sâu đấy, chú ạ.

- Vậy có lần nào tới huyện Lạc Dương không?

- Chính xác là hạ tuần tháng Bảy năm tám mươi, chúng cháu nghỉ tại trụ sở công an xã.

- Ui da! - Ông già reo lên - Anh là… Mai Sơn ? Tôi là Nghi trưởng công an xã đây. Hồi đó… anh gọi tôi là “anh” kia.

- Phải rồi, chính chú là người đã hỏi cung tên Fulro bị anh Quang bắn què chân trong đêm mưa ấy. Chú, đây là Ngọc Thủy.

- Chu cha! Vợ chưa cưới của cậu Quang là… Ngọc Thủy. Phải Thủy đó không?

- Chào chú. Cháu ở Hà Nội mới vào ạ.

Ông Nghi nhắm mắt lầm bầm; “Vậy là cậu Quang đã cho chúng ta có duyên gặp nhau tại đây rồi. Người trẻ chết là thiêng lắm. Hèn chi, sáng nay cái chân mình nó đau khớp nhức mà mình vẫn quyết đi, thế là gặp được cả hai người thân của cậu ấy”. Ngọc Thủy nói:

- Chúng cháu không tìm được mộ của anh ấy.

- Mãi sau mới tìm ra mộ của Quang nên phòng thương binh xã hội chưa kịp làm bia, ông Nghi nói - Sơn ạ, đoàn của anh chuyển đi buổi sáng thì ngay đêm đó Quang hy sinh.

- Đêm đó, Quang mang trả cháu cây sáo trúc mà.

- Sao? Đêm đó nó mang trả anh cây sáo ? - Ông Nghi vỗ tay lên trán mắt nhắm chặt như vừa buột mất vật gì đó không kịp níu lại rồi kể với cái giọng khàn khàn…

Đêm đó, đến giờ trực không thấy Quang về, ông Nghi đã phải trực thay, ông cho rằng Quang bỏ trực đêm để đi chơi. Nhưng mấy ngày sau, vẫn không thấy Quang về đơn vị, gia đình cũng không biết đi đâu, ông lại đoán anh trốn ra Hà Nội thăm người yêu, vì trước đó anh xin nghỉ phép nhưng ông không cho vì đơn vị đang thiếu người. Chừng hơn mười ngày sau cũng không thấy Quang về, ông nhận định Quang đã bị Fulro giết liền dẫn một số chiến sĩ đón lõng một tên Fulro ở cửa rừng về hỏi cung thì được biết ngay đêm ấy bọn chúng lén về xã chờ gia đình Tơ Nhang ngủ để trộm heo, gà, lương thực. Nhưng mới đi khỏi xã thì đụng phải Quang, anh chặn chúng lại, liền bị chúng dùng gậy gộc tấn công, anh bắn chết hai thằng. Nhưng chúng đông hơn nên đã giết anh rồi chạy tháo thân bỏ cả đồ ăn trộm lại. Tên phỉ bị bắt này lúc đó nghe tiếng súng bỏ chạy không tham gia giết Quang nên không biết xác anh ở đâu. Ông Nghi phối hợp với xã bên truy tìm mộ của Quang hai tuần mới thấy. Xác anh được một già làng thay bộ đồ dân tộc rồi bọc anh trong tấm nylon kín đáo đem chôn, hàng ngày lén thắp nhang như phong tục người kinh chờ người nhà đến tìm...

- Thưa chú. Tại sao thời gian ở quân đội anh ấy tên Lâm, khi sang ngành công an lại tên là Quang ạ? - Thủy thắc mắc.

- Tên thật cậu ấy là Trần Quang Lâm, thời sinh viên tham gia phong trào xuống đường đấu tranh chống khủng bố của Nguyễn Văn Thiệu nên đã lấy tên là Quang. Khi từ quân ngũ trở về theo yêu cầu của địa phương, cậu ấy chuyển sang ngành công an nên anh em vẫn quen gọi tên Quang.

Ông Nghi đưa hai người đến ngôi mộ của Trần Quang Lâm, chính là ngôi mộ mà Thủy đã dừng chân ngồi khi sáng. Khói nhang nghi ngút giăng giăng như tấm voan mỏng quện tiếng thông reo như khấn nguyện trong tiếng mõ công phu của ngôi chùa nào đó như tưởng niệm những liệt sĩ yên nghỉ nơi này được siêu sinh tịnh độ.

Tượng đài soi bóng trên hồ nước như chứng minh tồn tại mãi với thời gian.

Nguyễn Thị Trâm

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/anh-khong-la-liet-si-vo-danh-412445.html