Áp lực tâm lý đè nén dễ khiến việc điều trị vô sinh, hiếm muộn thất bại
Sinh con khỏe mạnh là mong muốn chính đáng của tất cả các cặp vợ chồng. Nhưng theo một số nghiên cứu, có khoảng 1/6 dân số thế giới ở độ tuổi sinh sản có liên quan đến các bệnh lý về vô sinh, hiếm muộn. 35% nguyên nhân vô sinh được phát hiện nhờ các xét nghiệm di truyền. Và 5% đến 11% thai lưu liên quan đến bất thường về di truyền...
BS. Nguyễn Thị Nhã - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện cho biết, theo thống kê của Bộ Y tế năm 2010 có 7,7% các cặp vợ chồng trong lứa tuổi sinh sản có vấn đề về vô sinh, tương đương với hơn 1 triệu cặp vợ chồng. Đây là thực trạng rất đáng lo ngại.
Hiện nay tuy chưa có con số cụ thể nhưng thực tế điều trị cho thấy số lượng các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn ngày càng nhiều. Song có một điều đáng mừng là trong những năm gần đây, truyền thông đã lan tỏa được nhiều thông tin nên các cặp vợ chồng trẻ mới kết hôn một đến hai năm không có con đã gạt bỏ ngại ngùng đi khám vô sinh hiếm muộn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều trị.
"Thông thường, nguyên nhân vô sinh 40% do nữ và 40% do năm, còn lại 20% do nguyên nhân khác"- BS. Nhã cho hay. Chuyên gia hỗ trợ sinh sản cũng chia sẻ, trong quá trình điều trị vô sinh thì tuổi bệnh nhân là đáng lo ngại nhất. Tuổi càng cao, trứng kém dẫn đến khả năng thụ thai thấp, tỷ lệ trẻ có bất thường nhiều hơn.
Ngày nay, y học hiện đại đã có nhiều phương pháp điều trị vô sinh, hiếm muộn nhất là kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, kết hợp với các xét nghiệm di truyền để tìm ra nguyên nhân vô sinh đồng thời loại trừ các bệnh lý do cha mẹ truyền lại... Tuy nhiên một trong những vấn đề quan trọng trong điều trị vô sinh, hiếm muộn đó là tâm lý của bệnh nhân. Họ thường gặp phải áp lực về gia đình, xã hội, các áp lực tài chính.
"Trong quá trình điều trị, hầu như những bệnh nhân có tâm lý nặng nề thì khả năng thành công không cao bằng những bệnh nhân có tư tưởng thoải mái và không quá áp lực..."- BS. Nhã chỉ rõ.
Ngoài ra, một số cặp vợ chồng gặp phải sai lầm gây ảnh hưởng đến điều trị như không đi khám sớm trong khi tỷ lệ có thai phụ thuộc vào tuổi phụ nữ rất nhiều. Cụ thể, dưới 33 tuổi kết quả điều trị thành công vô sinh hiếm muộn cao hơn. Có một số bạn trẻ lại ngại đi khám toàn diện nên không tìm được nguyên nhân vô sinh hiếm muộn để có hướng xử lý thích hợp...
Để nâng cao chất lượng điều trị vô sinh, hiếm muộn, thời gian qua, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản đã phối hợp với Đại học Y Hà Nội để làm các xét nghiệm di truyền có bất thường về nhiễm sắc thể hay tiền sử bệnh lý di truyền để xem có mang gene di truyền không... Nhờ đó, bác sĩ lựa chọn được phôi khỏe mạnh cho gia đình và sinh con khỏe mạnh hơn. Xét nghiệm di truyền đóng góp phần rất quan trọng để tìm ra nguyên nhân vô sinh, hiếm muộn. Việc kết hợp giữa xét nghiệm di truyền và thụ tinh trong ống nghiệm là biện pháp giúp các cặp vợ chồng có bất thường về di truyền sinh ra những em bé khỏe mạnh - BS. Nhã chia sẻ thêm.
Trước thực trạng vô sinh hiếm muộn hiện đang là nỗi lo lắng, ám ảnh đối với nhiều cặp vợ chồng, ngày 30/7, BV Bưu Điện đã tổ chức ngày hội tư vấn vô sinh, hiếm muộn miễn phí lần thứ 5 với chủ đề “IVF Bưu điện: Sinh con khỏe mạnh, hạnh phúc vẹn tròn”. Các bác sĩ đã cung cấp cho người bệnh và cộng đồng những hiểu biết về nguy cơ, nguyên nhân gây tổn thương sức khỏe sinh sản, cách phòng tránh cũng như phát hiện sớm và điều trị kịp thời vô sinh, hiếm muộn nhờ các tiến bộ trong công nghệ hỗ trợ sinh sản.
Được biết, sau hơn 7 năm thành lập, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản đã ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật khó và kỹ thuật chuyên sâu trong hỗ trợ sinh sản, giúp hàng nghìn cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn tìm được con yêu khỏe mạnh. Điển hình là các kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI), thụ tinh trong ống nghiệm, tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI), lấy tinh trùng từ mào tinh (PESA), lấy tinh trùng từ vi phẫu tinh hoàn (MICRO TESE), đông phôi theo phương pháp thủy tinh hóa, hỗ trợ phôi thoát màng, chuyển phôi đông lạnh... Các ca thụ tinh trong ống nghiệm khó như: người bệnh lớn tuổi, người bệnh có tinh trùng bất động 100%, bệnh nhân có nhiễm sắc thể chuyển đoạn, đảo đoạn, bệnh nhân chuyển phôi nhiều lần thất bại; bệnh nhân mắc các bệnh lý di truyền…
Kết quả có đến 60-65% tỉ lệ bệnh nhân có thai sau thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, giúp các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn hiện thực hóa ước mơ làm cha mẹ.