Bắc Giang: Đền Nguyệt Hồ thờ Chúa Bói, là địa chỉ văn hóa tâm linh.
Huyện Yên Thế (Bắc Giangcó đền Nguyệt Hồ linh thiêng,, là nơi thờ Chúa Bói, là địa chỉ văn hóa tâm linh được nhiều người chiêm bái,.
Một lần ngược núi đồi Yên Thế, để nghe vang vọng đâu đây âm hưởng thần kỳ từ những bản hùng ca quật cường cuộc khởi nghĩa nông dân do người anh hùng Đề Thám lãnh đạo, chúng tôi được người dân bản địa giới thiệu thêm rằng, Yên Thế còn có đền Nguyệt Hồ linh thiêng, là nơi duy nhất tại Việt Nam thờ Chúa Bói, là địa chỉ văn hóa tâm linh của nhân dân thập phương vẫn luôn thành tâm hành hương về chiêm bái, được thưởng ngoạn cảnh sắc, không gian giữa núi rừng ngàn năm xanh ngút. Đặc biệt, du khách đến đây được lắng đọng tâm hồn trong những cung bậc thần tiên của điệu hát văn chúc Thánh
Sử tích Chúa Nguyệt Hồ
“Ai lên tới Cao Sơn Bạch Mã, hỏi thăm đền chúa Nguyệt nơi nao/ Ghé hỏi thăm phố Kép đi vào/ Ngã tư Bố Hạ có con đường vào mỏ than/ Ngôi đền thờ Chúa có miếu Cậu, lầu Cô/ Xung quanh đá mọc lô xô con đường vào/ Cây ngọc lan xanh biếc bốn mùa”...
Lời hát văn ca ngợi phong cảnh đền Nguyệt Hồ đã khá quen thuộc với tất cả mọi người khi về đền chúa bói Nguyệt Hồ.
Nằm giữa những triền núi non trùng điệp, từ lâu, hát văn đã trở thành “đặc sản” tâm linh tại đền Nguyệt Hồ, xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế (Bắc Giang). Nơi đây giáp với địa phận huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn), các sinh hoạt, tập quán đồng bào quanh xã Hương Vĩ mang đậm dấu ấn vùng núi.
Chúng tôi gặp đồng thầy Lê Thị Thanh Hiền cùng các đệ tử bản hội điện Quang Minh hành hương lễ Thánh tại đền, cô chia sẻ rằng: Cả nước duy chỉ có đền này thờ “Chúa Bói”, theo quan niệm, những thầy chiêm tinh, địa lý, thanh đồng khi trình đồng mở phủ đều lên đây dâng văn, xin lộc Thánh. Trong đó một trong những nét văn hóa không thể thiếu là hát văn, hầu đồng.
Theo truyền thuyết và tài liệu xưa ghi chép lại: “Đệ Nhị Nguyệt Hồ là bà Chúa Bói dưới thời Hùng Vương. Tương truyền rằng, chúa bà Nguyệt Hồ vốn là người thôn nữ ở đất Bắc Giang, từ nhỏ đã sống trong cảnh cơ hàn. Bà là người rất tốt bụng, thảo hiền, có lòng nhân hậu, vì vậy, Lão Tổ Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh đã truyền dạy cho bà những đạo pháp của mình và đặt tên hiệu cho bà là Nguyệt Hồ (hay Huyết Hồ). Sau khi đã học được phép của Tiên Sinh, bà dành hết cuộc đời mình để làm phúc cho dân lành. Chẳng bao lâu, danh tiếng đồn của Chúa Nguyệt Hồ đã lan tới kinh đô, đức vua bèn truyền chỉ, mời chúa về kinh đô, mỗi lần ra trận, vua đều cho người đến thỉnh cầu, nhờ chúa bà bấm đốt tay, xem lành dữ và hỏi chuyện quân cơ, mưu lược, bày binh bố trận”.
Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà chúa Nguyệt Hồ là bà chúa bói danh tiếng bậc nhất và rất hay ngự đồng. Khi ngự đồng, chúa mặc áo xanh, múa mồi. Đôi khi chúa ngự về còn dùng lá trầu quả cau để xem bói, phán bảo trần gian.
Ngày lễ tại đền Nguyệt Hồ vào 15-2 âm lịch, tại đây phần tế được tiến hành với những nghi lễ độc đáo là lễ hát dâng văn. Người được chọn diễn xướng hát văn phải có giọng hát hay, đàn giỏi, đức tài trọn vẹn và gia đình không có tang bụi.
Sự huyền bí trong tín ngưỡng thờ Mẫu
Đền bà chúa Nguyệt Hồ có lịch sử từ lâu đời, xưa ngôi đền có một cung đặt tượng thờ Nguyệt Nga công chúa và bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu, qua thời gian ngôi đền đã được nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm công đức tu sửa tôn tạo nhiều lần thêm phần khang trang tố hảo. Ghé thăm đền Nguyệt Hồ, chúng ta không chỉ được trải nghiệm, thưởng thức những lời hát văn, các giá hầu đồng mà còn là dịp để tưởng nhớ đến công lao to lớn của Chúa, nhắc nhở thế hệ trẻ có cái nhìn, tình cảm trân trọng cuộc sống như ngày hôm nay.
Quần thể di tích hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khu sân đền, hồ Nguyệt, khu đền chính gồm tòa đại bái và hậu cung, kiến trúc theo lối cổ truyền thống. Trong hậu cung đặt tượng Bà Chúa bản đền, chúa Nguyệt Hồ, tức Nguyệt Nga công chúa và bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu gồm hàng Thánh Mẫu tới hàng Quan, hàng Chầu, ông Hoàng, các Cô, Cậu và Đức Thánh Trần. Hai cung ngoài tòa đại bái cũng bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu. Như vậy, theo bề dày lịch sử, đền Nguyệt Hồ đã được phủ lên nhiều lớp tín ngưỡng, ngoài thờ “Bà chúa Nguyệt Hồ- Chúa Bói”, còn thờ “Tam tòa Thánh Mẫu”, thờ Cô, thờ Cậu, thờ Sơn Trang, thờ các ông Hoàng và đức Thánh Trần Triều.....và từ lâu đền Nguyệt Hồ đã được phủ lên một lớp tín ngưỡng “thờ Mẫu”. Theo các nhà nghiên cứu thì tín ngưỡng thờ Mẫu vốn là tín ngưỡng của người Việt cổ có từ lâu đời và ngày càng phát triển.
Chứng kiến một vấn hầu của đồng thầy Lê Thị Thanh Hiền ở đền Nguyệt Hồ thật sự mang lại nhiều cảm xúc. Tiếng trống từ từ vang lên, âm thanh nỉ non của sáo trúc, sáo mèo, đàn nguyệt, đàn tranh hòa quyện giữa núi rừng khiến cho buổi lễ có sức hút lạ kì. Trên ban thờ, lễ vật đã tươm tất bánh kẹo, hoa quả. Phía dưới chiếu, thanh đồng, cung văn và người đi lễ trang nghiêm chắp tay thành kính, một canh hát văn tại đền Nguyệt Hồ được bắt đầu như vậy. Những ai đến đây đều mê đắm những điệu hát văn trầm lắng, sâu sắc và bay bổng như nghiêng ngả đất trời, ta như thoát ra khỏi thế giới hiện thực để đến với thế giới của thần tiên.
Khi diễn xướng, mỗi thanh đồng, cung văn như một diễn viên thể hiện say sưa trong từng bản nhạc, điệu múa. Những câu chuyện huyền thoại của các nhân vật lịch sử trong mỗi giá hầu đồng lần lượt được “kể” nối tiếp nhau bằng màn diễn xướng nghệ thuật qua điệu bộ, cử chỉ của thanh đồng và lời ca của cung văn một cách đầy hưng phấn. Âm nhạc khi bổng, khi trầm đã khiến cho những ai chứng kiến buổi lễ đều thấy phấn chấn, vui tươi và chắc chắn dư âm ấy sẽ còn lắng đọng với nhiều người. Ở đây, yếu tố tín ngưỡng và văn hóa đan quyện vào nhau làm cho người dự cùng lúc đáp ứng được nhu cầu tâm linh và nhu cầu mỹ cảm thông qua hưởng thụ những giá trị văn hóa nghệ thuật của diễn xướng dân gian... Điều đó lý giải vì sao hầu đồng vẫn là sinh hoạt không thể bị loại bỏ khỏi đời sống hiện đại.
Chúng tôi ra về vào lúc chiều muộn mà trong lòng vẫn còn âm hưởng thánh thót những lời văn dâng chúa: Một đời làm phúc quên mình/Tiên sinh làm phép đặt tên Nguyệt Hồ/Tiếng đồn cho tới Kinh Đô/Có Tiên Chúa Bói Nguyệt Hồ rất hay...