Bài 2: Các loài ngoại lai xâm hại đang tăng trưởng mạnh
Với đặc tính sinh học cá biệt như sức sống mạnh, khả năng chiếm lĩnh địa bàn nhanh chóng, các loài ngoại lai xâm lấn đang tăng trưởng với tốc độ nhanh chưa từng thấy, nhanh chóng phá hủy môi trường và ảnh hưởng đến thành tựu thiên nhiên và nhân loại.
Theo giáo sư Pauchard - người Chi Lê, sẽ là một sai lầm "cực kỳ tốn kém" nếu chỉ coi các cuộc xâm lấn sinh học là vấn đề của "người khác”. Mặc dù các loài xâm hại cụ thể gây thiệt hại khác nhau tùy theo từng nơi, nhưng đây là những rủi ro và thách thức có nguồn gốc toàn cầu nhưng lại có tác động rất cục bộ, mà người dân ở mọi quốc gia, mọi thành phần và mọi cộng đồng phải đối mặt - ngay cả Nam Cực cũng đang bị ảnh hưởng.
Báo cáo của IPBES cho thấy 34% tác động của các cuộc xâm lấn sinh học được báo cáo từ châu Mỹ, 31% từ châu Âu và Trung Á, 25% từ châu Á và Thái Bình Dương và khoảng 7% từ châu Phi. Hầu hết các tác động tiêu cực được báo cáo trên đất liền (khoảng 75%) - đặc biệt là ở rừng, rừng và các khu vực trồng trọt - với báo cáo ít hơn đáng kể ở môi trường sống nước ngọt (14%) và biển (10%). Các loài ngoại lai xâm lấn gây thiệt hại nhiều nhất trên các đảo, với số lượng thực vật ngoại lai hiện vượt quá số lượng thực vật bản địa trên hơn 25% tổng số đảo.
Đánh giá về tốc độ xâm lấn của các loài ngoại lai xâm hại, Giáo sư Roy của IPBES cho biết: “Mối đe dọa trong tương lai từ các loài ngoại lai xâm lấn là mối lo ngại lớn. “37% trong số 37.000 loài ngoại lai được biết đến ngày nay đã được báo cáo từ năm 1970 - phần lớn là do mức độ thương mại toàn cầu và hoạt động du lịch của con người ngày càng tăng. Trong điều kiện 'hoạt động bình thường', chúng tôi dự đoán rằng tổng số loài ngoại lai sẽ tiếp tục tăng theo cách này”.
Roy phân tích: “Nhưng việc hoạt động như bình thường thực sự khó xảy ra. Với rất nhiều động lực thay đổi chính được dự đoán sẽ trở nên tồi tệ hơn, người ta dự đoán rằng sự gia tăng của các loài ngoại lai xâm lấn và tác động tiêu cực của chúng có thể sẽ lớn hơn đáng kể. Nền kinh tế toàn cầu đang tăng tốc, sự thay đổi về sử dụng đất và biển ngày càng mở rộng, cũng như những thay đổi về nhân khẩu học có thể dẫn đến sự gia tăng các loài ngoại lai xâm lấn trên toàn thế giới. Ngay cả khi không có sự xuất hiện của các loài ngoại lai mới, các loài ngoại lai đã tồn tại sẽ tiếp tục mở rộng phạm vi của chúng và lan rộng sang các quốc gia và khu vực mới. Biến đổi khí hậu sẽ khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn”.
Báo cáo IPBES nhấn mạnh rằng sự tương tác giữa các loài ngoại lai xâm lấn và các động lực thay đổi khác sẽ có khả năng khuếch đại tác động của chúng - ví dụ, các loài thực vật ngoại lai xâm lấn có thể tương tác với biến đổi khí hậu, thường dẫn đến các vụ cháy dữ dội và thường xuyên hơn, chẳng hạn như một số vụ cháy rừng tàn khốc đã xảy ra gần đây trên khắp thế giới, thải ra nhiều carbon dioxide hơn vào khí quyển.
Các chuyên gia của IPBES chỉ ra rằng các biện pháp nhìn chung chưa đủ để giải quyết những thách thức này. Trong khi 80% các quốc gia đề ra mục tiêu liên quan đến quản lý các loài ngoại lai xâm lấn trong kế hoạch đa dạng sinh học quốc gia của họ thì chỉ có 17% có luật pháp hoặc quy định quốc gia cụ thể giải quyết các vấn đề này. Điều này cũng làm tăng nguy cơ các loài ngoại lai xâm lấn các quốc gia láng giềng. Báo cáo cho thấy 45% các quốc gia không đầu tư vào việc quản lý các cuộc xâm lấn sinh học.
Ở một lưu ý tích cực hơn, báo cáo nhấn mạnh rằng các cuộc xâm lấn sinh học trong tương lai, các loài ngoại lai xâm lấn và tác động của chúng có thể được ngăn chặn thông qua việc quản lý hiệu quả và các phương pháp tiếp cận tổng hợp hơn. Giáo sư Pauchard cho biết: “Tin tốt là, trong hầu hết mọi bối cảnh và tình huống, đều có các công cụ quản lý, phương án quản trị và hành động có mục tiêu thực sự hiệu quả”. “Phòng ngừa hoàn toàn là lựa chọn tốt nhất, tiết kiệm chi phí nhất - nhưng việc diệt trừ, ngăn chặn và kiểm soát cũng có hiệu quả trong những bối cảnh cụ thể. Phục hồi hệ sinh thái cũng có thể cải thiện kết quả của các hoạt động quản lý và tăng sức đề kháng của hệ sinh thái đối với các loài ngoại lai xâm lấn trong tương lai. Thật vậy, việc quản lý các loài ngoại lai xâm lấn có thể giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của các động lực thay đổi khác”.
Báo cáo xác định các biện pháp phòng ngừa - chẳng hạn như an toàn sinh học ở biên giới và thực thi nghiêm ngặt các biện pháp kiểm soát nhập khẩu - đã có hiệu quả trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như những thành công đạt được ở Australasia trong việc giảm sự lây lan của bọ xít nâu (Halyomorpha halys). Sự chuẩn bị sẵn sàng, phát hiện sớm và phản ứng nhanh được chứng minh là có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ hình thành các loài ngoại lai và đặc biệt quan trọng đối với các hệ thống nước biển và nước kết nối. Chương trình PlantwisePlus hỗ trợ nông dân sản xuất nhỏ ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latinh được báo cáo nêu bật như một ví dụ điển hình về tầm quan trọng của các chiến lược giám sát chung để phát hiện các loài ngoại lai mới.
Việc tiêu diệt một số loài ngoại lai xâm lấn đã đem lại thành công và tiết kiệm chi phí, nhất là khi quần thể của chúng còn nhỏ và phân bố chậm trong các hệ sinh thái biệt lập như các đảo. Một số ví dụ về điều này là ở Polynesia thuộc Pháp, nơi chuột đen (Rattus rattus) và thỏ (Oryctolagus cuniculus) đã bị tiêu diệt thành công. Báo cáo chỉ ra rằng việc tiêu diệt các loài thực vật ngoại lai khó khăn hơn do hạt giống có thể nằm im trong đất trong thời gian dài. Các tác giả nói thêm rằng các chương trình diệt trừ thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như sự hỗ trợ và tham gia của các bên liên quan, người dân bản địa và cộng đồng địa phương.
Khi không thể diệt trừ vì nhiều lý do khác nhau, các loài ngoại lai xâm lấn thường có thể được ngăn chặn và kiểm soát - đặc biệt là trong các hệ thống nước kín và trên đất liền, cũng như trong nuôi trồng thủy sản - một ví dụ là việc ngăn chặn loài ngoại lai xâm lấn có vỏ châu Á (Styela clava) ở vẹm xanh nuôi trồng thủy sản ở Canada. Việc ngăn chặn thành công có thể là bằng các biện pháp vật lý, hóa học hoặc sinh học - mặc dù tính phù hợp và hiệu quả của từng phương án phụ thuộc vào bối cảnh địa phương. Việc sử dụng biện pháp kiểm soát sinh học đối với các loài thực vật ngoại lai và động vật không xương sống xâm lấn, chẳng hạn như đưa nấm gỉ sắt (Puccinia spegazzinii) vào để kiểm soát cây nho đắng (Mikania micrantha) ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đã có hiệu quả - với thành công ở hơn 60% diện tích ở các trường hợp được biết đến.
Giáo sư Stoett cho biết: “Một trong những thông điệp quan trọng nhất từ báo cáo là có thể đạt được tiến bộ đầy tham vọng trong việc giải quyết các loài ngoại lai xâm lấn”. Điều cần thiết là một cách tiếp cận tổng hợp theo từng bối cảnh cụ thể, xuyên suốt và trong từng quốc gia cũng như các lĩnh vực khác nhau liên quan đến việc cung cấp an toàn sinh học, bao gồm thương mại và vận tải; sức khỏe con người và thực vật; phát triển kinh tế và nhiều hơn nữa. Điều này sẽ mang lại lợi ích sâu rộng cho thiên nhiên và con người. Các phương án được đưa ra trong báo cáo bao gồm xem xét các chính sách và quy tắc ứng xử nhất quán giữa các ngành và quy mô; cam kết và nguồn lực; nhận thức và sự tham gia của công chúng, chẳng hạn như các chiến dịch khoa học công dân như chiến dịch quảng bá 'kiểm tra, sạch sẽ và khô ráo'; hệ thống thông tin mở và có khả năng tương tác; lấp đầy lỗ hổng kiến thức (các tác giả xác định hơn 40 lĩnh vực cần nghiên cứu); cũng như quản trị toàn diện và công bằng.
Tiến sĩ Anne Larigauderie, Thư ký Điều hành của IPBES, cho biết: “Tính cấp bách trước mắt của các loài ngoại lai xâm lấn, với mức độ gây hại ngày càng gia tăng đối với thiên nhiên và con người, khiến báo cáo này trở nên có giá trị và kịp thời”. “Các chính phủ trên thế giới đã đồng ý, vào tháng 12 năm ngoái, như một phần của Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh-Montreal mới, nhằm giảm sự phát tán và thiết lập các loài ngoại lai xâm lấn ưu tiên ít nhất 50% vào năm 2030. Đây là một điều quan trọng, nhưng cũng là cam kết rất tham vọng. Báo cáo về các loài ngoại lai xâm lấn của IPBES cung cấp bằng chứng, công cụ và lựa chọn để giúp thực hiện cam kết này dễ dàng hơn”.