Bài cuối: Làm thế nào để các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện được cơ chế tự chủ?
TS. NGUYỄN QUÂN - Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Thành viên Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ trương giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập là cần thiết và đúng đắn để nâng cao hiệu quả hoạt động và phát huy tối đa sự chủ động, sức sáng tạo của trí thức. Tuy nhiên phải làm ngay mấy việc sau để vượt qua các rào cản, để các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Hiểu đúng để tổ chức thực hiện khoa học, quyết liệt
Nhà nước lập ra các đơn vị sự nghiệp công lập để thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của nhà nước giao, đó là những nhiệm vụ phục vụ các mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước, các nhiệm vụ và dịch vụ mà tư nhân không làm hoặc không được làm. Và vì thế, nhà nước phải chăm lo xây dựng tiềm lực cho các đơn vị này để phát triển, để có đội ngũ nhân lực mạnh. Trong điều kiện khó khăn về ngân sách và cần nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo sức cạnh tranh với khu vực tư nhân thì cần khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ, nhất là tự chủ kinh phí chi thường xuyên, nhưng không nên hiểu một cách máy móc là khi cho họ quyền tự chủ thì nhà nước sẽ không cấp kinh phí cả chi thường xuyên và chi đầu tư.
Chúng ta phải trả lời được câu hỏi: nếu đơn vị sự nghiệp không được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách thì nó có còn là đơn vị công lập nữa hay không? Và khi đóng "cánh cửa" cấp ngân sách chi thường xuyên thì Nhà nước phải mở cánh cửa nào khác cho các đơn vị sự nghiệp công lập để các đơn vị này có nguồn thu duy trì hoạt động? Đó có phải là cánh cửa dịch vụ, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh và hợp tác quốc tế?… Còn chi đầu tư phải được coi là trách nhiệm của Nhà nước, nhưng phải đổi mới phương thức hỗ trợ, chỉ cấp kinh phí đầu tư cho những đơn vị có dự án tốt hoặc theo đặt hàng của Nhà nước, coi việc đầu tư là sự chăm lo của Nhà nước và phần thưởng xứng đáng cho các đơn vị dám tự đảm bảo chi thường xuyên và có tốc độ tăng trưởng cao.
Vì thế, cần sửa đổi Nghị định số 60 của Chính phủ theo hướng chỉ nên quy định 3 nhóm đơn vị sự nghiệp công lập để phân cấp mức độ tự chủ. Nhóm 1 là nhóm không thể tự đảm bảo chi thường xuyên, đó là các đơn vị nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược chính sách và dịch vụ công ích phục vụ quản lý nhà nước: Nhà nước cấp kinh phí chi thường xuyên nhưng cho phép tự chủ sử dụng theo phương thức khoán. Nhóm 2 là các đơn vị tự đảm bảo một phần kinh phí chi thường xuyên, có lộ trình tự đảm bảo toàn bộ kinh phí chi thường xuyên: Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí ngân sách thông qua giao nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng hoặc đặt hàng dịch vụ. Nhóm 3 là các đơn vị tự đảm bảo toàn bộ kinh phí chi thường xuyên, đây là các đơn vị có năng lực chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ, có nguồn thu ổn định và tăng trưởng tốt.
Cả ba nhóm trên đều có quyền nhận kinh phí đầu tư của Nhà nước khi có dự án phù hợp hoặc được Nhà nước giao nhiệm vụ, với điều kiện phải tự chủ tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, không nên quy định có nhóm 4 là nhóm phải tự chủ cả chi thường xuyên và chi đầu tư. Bên cạnh việc tự chủ về tài chính (khoán chi thường xuyên, trích lập các quỹ, quyết định mức thu nhập tăng thêm của cán bộ, chi thuê chuyên gia, được giao tài sản cho mục đích sản xuất kinh doanh và dịch vụ, được giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước…), các đơn vị sự nghiệp phải được giao quyền tự chủ cao về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và nhân sự (quyết định số lượng biên chế, thành lập doanh nghiệp hoặc đơn vị trực thuộc, bổ nhiệm cán bộ, hợp tác quốc tế, cử cán bộ kiêm nhiệm hoặc biệt phái sang quản lý doanh nghiệp, giải quyết chế độ chính sách cho cán bộ…).
Cần rà soát, đồng bộ hóa quy định pháp luật
Vướng mắc lớn nhất cản trở cơ chế tự chủ chính là sự không đồng bộ, không thống nhất của hệ thống luật pháp. Một chính sách có thể đúng theo quy định của luật này nhưng lại không đúng theo quy định của luật khác, nhất là các luật được coi là luật chuyên ngành có giá trị pháp lý cao hơn, dẫn tới vô hiệu hóa các chính sách mới tiến bộ hơn. Ví dụ cần sửa Luật Ngân sách nhà nước để có thể khoán chi thường xuyên, lập dự toán chi thường xuyên không căn cứ theo số lượng biên chế, cấp kinh phí nghiên cứu theo cơ chế quỹ; sửa Luật Viên chức để cho phép viên chức được thành lập hoặc điều hành doanh nghiệp spin-off hoặc start-up, được nâng lương nhiều bậc hoặc thăng hạng không qua thi khi có thành tích xuất sắc, được tiếp tục hưởng chế độ viên chức sau thời gian biệt phái sang doanh nghiệp, lãnh đạo đơn vị sự nghiệp không bị quản lý như công chức; sửa Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp để các đơn vị công lập khi có sản xuất kinh doanh được trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ mức cao hơn 10% thu nhập tính thuế và tự quyết định nội dung, định mức chi của quỹ; sửa Luật Sở hữu trí tuệ để mặc định giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu cho viên chức; sửa Luật Quản lý tài sản công để đơn vị sự nghiệp có thể sử dụng cơ sở vật chất liên doanh, liên kết trong hoạt động dịch vụ và sản xuất kinh doanh, viên chức được quyền sử dụng tài sản trí tuệ và tài sản hình thành sau nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp, chuyển nhượng cho doanh nghiệp hoặc thành lập doanh nghiệp; sửa Luật Doanh nghiệp để các đơn vị sự nghiệp có thể được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, viên chức có thể thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ để được hưởng chính sách ưu đãi cao nhất của Nhà nước; sửa Luật Khoa học và công nghệ để thực hiện được cơ chế đặt hàng nghiên cứu và đơn giản hóa thủ tục phê duyệt, thanh quyết toán nhiệm vụ khoa học và công nghệ...
Việc thực hiện thành công cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những nội dung quan trọng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là bước đi phù hợp trong cải cách hành chính và hội nhập quốc tế. Các đơn vị sự nghiệp dù do các cơ quan quản lý nhà nước lập ra nhưng không có chức năng quản lý nhà nước, vì thế cần được quản lý như những thực thể độc lập, có quyền tự chủ cao để chủ động thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ do Nhà nước giao hoặc đặt hàng. Đây cũng là một tiền đề để xây dựng đội ngũ viên chức nhà nước giỏi chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, gắn bó lâu dài với đơn vị sự nghiệp công lập, thu hút ngày càng nhiều nhân tài trong nước và nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực sự nghiệp quan trọng là giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ. Thời đại công nghệ số đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương hơn, cho chúng ta cơ hội thuận lợi hơn để thực sự đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.