Soạn bài và văn mẫu Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích truyện Kiều) | Văn mẫu lớp 9

Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 9

1. Tìm hiểu chung về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Nguyễn Du)

Tác giả Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.

Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều biến cố thăng trầm nhưng chính hoàn cảnh ấy tạo cho ông vốn sống phong phú, tâm hồn sâu sắc.

Sự nghiệp sáng tác

Sự nghiệp sáng tác được đánh giá cao cả về chữ Hán và chữ Nôm.

Tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Các giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đạt đến đỉnh cao.

Vị trí đoạn trích

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng định tự vẫn, Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế nhưng thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện và tàn bạo hơn.

Bố cục: 3 phần

Giá trị nội dung

Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Giá trị nghệ thuật

Đoạn trích thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với bút pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều.

2. Dàn ý chung phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)

A. Mở bài

Giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Du: đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một cây bút xuất sắc của nền văn học.

Truyện Kiều là tác phẩm được coi là hồn dân tộc; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ Truyện Kiều, qua đoạn trích nhà thơ đã vô cùng tinh tế và sâu sắc khi diễn tả được tâm trạng của Thúy Kiều qua cảnh vật.

B. Thân bài

1. Phân tích 6 câu thơ đầu: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thúy Kiều

a. 4 câu thơ đầu: bức họa về hoàn cảnh, không gian nơi Thúy Kiều ở.

Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của Kiều.

“Khóa xuân”: khóa kín tuổi xuân, ở nơi đây, con người đã chẳng còn mong chờ đến tuổi thanh xuân nữa.

“Non xa- trăng gần” đối nhau: tạo không gian xa rộng, nơi đây Kiều không có một người thân quen.

Tác giả sử dụng từ ghép “bốn bề” đứng cạnh từ láy “bát ngát” gợi không gian rộng lớn không một bóng người.

Cảnh vật vốn có đường nét, màu sắc nhưng lại không đẹp, đã vậy còn gợi cảm giác cô đơn, rợn ngợp.

Ở đây tác giả sử dụng vô cùng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình.

b. 2 câu thơ sau: Tình của Kiều.

Từ láy “bẽ bàng”: diễn tả nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, trong tâm trí nàng vẫn còn in đậm những sự việc vừa mới xảy ra: bị Mã Giám Sinh làm nhục, bị ép làm gái lầu xanh rồi giờ bị giam lỏng nơi đây.

Thành ngữ “mây sớm đèn khuya”: chỉ thời gian tuần hoàn khép kín, một mình Kiều nơi đây làm nổi bật nỗi bơ vơ.

So sánh “Nửa tình nửa cảnh như chia tâm lòng”: nỗi lòng Kiều như bị chia ra làm hai, nửa dành cho cảnh nửa dành cho tình.

Sáu câu thơ đầu được xây dựng bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng quạnh hiu để khắc họa rõ tâm trạng cô đơn của Kiều.

2. Phân tích 8 câu thơ tiếp: Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều

a. Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu).

“Người dưới nguyệt chén đồng”: chỉ chàng Kim cùng lời thề nguyền đính ước.

Động từ “tưởng”: Kiều hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp bên Kim Trọng.

Hai động từ “trông, chờ” được tách ra đi kèm với các danh từ chỉ thời là “rày, mai”: Thúy Kiều lo chàng Kim cũng nhớ Kiều tha thiết.

Thành ngữ biến thể “bên trời góc bể”: gợi ra không gian quê người xa xôi, cách trở.

Ẩn dụ “tấm son” kết hợp với câu hỏi tu từ “gột rửa bao giờ cho phai” tạo ra hai cách hiểu: thứ nhất tấm lòng Kiều không bao giờ quên được chàng Kim và thứ hai là tấm thân của Kiều đã bị làm nhục bao giờ mới gột rửa được.

Sự thủy chung son sắt của Kiều với người yêu.

b. Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu tiếp theo)

Kiều nhớ thương cha mẹ:

Động từ “xót” lại kết hợp với câu hỏi tư từ: thể hiện sự đau đớn của nàng khi nhớ về cha mẹ

“Nắng mưa”: ẩn dụ thời gian trong tâm tưởng của Kiều khi xa gia đình

Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”: làm nổi bật sự lo lắng của Kiều, rồi đây ai sẽ quạt cho cha mẹ ngủ khi oi nóng, ai sẽ ủ chăn ấm cho cha mẹ khi trời giá lạnh

Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy Kiều vẫn lo cho cha mẹ một người con có hiếu

3. Phân tích 8 câu thơ cuối: Tâm trạng đau buồn của Kiều và dự cảm trước tương lai sóng gió

a. 2 câu đầu: Bức tranh cửa bể lúc hoàng hôn.

“Mênh mông cửa bể chiều hôm”: Giữa không gian bao la mênh mông Kiều cảm thấy nhớ quê hương, một nỗi buồn trào dâng da diết.

Hình ảnh “con thuyền” gợi sự cô đơn, Kiều đang nhớ gia đình, không biết bao giờ mới được trở về.

Nhìn cánh buồm lẻ loi trôi nỗi giữa sóng nước Kiều nghĩ đến thân phận mình cũng đang bị dòng đời đưa đẩy.

b. 2 câu tiếp: Cảnh hoa trôi mặt nước.

“Buồn trông”: gợi âm điệu buồn mênh mang, nỗi buồn nhân lên khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi lênh đênh vô định.

Từ “trôi”: chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, nhũng cánh hoa trôi mặc sóng nước vùi dập như số phận Kiều cũng thế.

c. 2 câu tiếp: Cảnh nội cỏ rầu rầu.

Từ “rầu rầu” được nhân hóa chỉ màu sắc của cỏ thiên nhiên như nhuốm màu tâm trạng bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều.

Kiều tuyệt vọng, mất phương hướng, đây vừa là tâm trạng vừa là cảnh ngộ của Thúy Kiều.

d. 2 câu cuối: Cảnh giông bão sóng gió và niềm dự cảm tương lai.

Hình ảnh dữ dội xuất hiện: “gió cuốn mặt duyềnh”: ước lệ cho sóng gió cuộc đời đang bủa vây, cuốn lấy Kiều, những tai ương sắp ập đến đời nàng.

Nhân hóa “sóng kêu”: gợi hình dung Kiều chới với giữa cái bất tận sục sôi trong lòng Kiều và quanh Kiều.

“Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”: Trong lòng Kiều là tiếng sóng của buồn đau sợ hãi, dự cảm sóng gió dường như đang tiến đến rất gần Kiều.

Câu thơ thể hiện dự cảm của Thúy Kiều về cuộc đời mình nhiều gian truân sóng gió.

C. Kết bài

Khẳng định những giá trị nghệ thuật làm nên thành công của đọa trích: thể thơ lục bát cổ truyền, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế kết hợp các biện pháp tu từ quen thuộc, điệp ngữ “buồn trông”…

Đoạn trích thể hiện tâm trạng buồn đau, cô đơn hiu quạnh trước khung cảnh thiên nhiên cùng bao nỗi nhớ ùa về trong lòng.

3. Viết đoạn văn phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Viết đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích lột tả sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa lầu Ngưng Bích lạnh lẽo. Đó là một tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến, nỗi xót xa khi tình đôi lứa chia lìa và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.

Viết đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2

Tâm trạng của Thúy Kiều cô đơn, nàng nghĩ về quá khứ và những người thân, nhưng ý nghĩ đó càng làm cho nàng xót xa hơn. Nhìn trăng nàng lại nhớ vầng trăng đỉnh ninh hai mặt một lời song song và thương nhớ chàng Kim vẫn mong ngóng tin nàng, không biết nàng đã bên trời góc bể bơ vơ. Nỗi đau đớn của nàng là phải từ bỏ tình yêu, từ bỏ tấm lòng son dành cho mối tình đầu: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Bao giờ thì nàng mới có thể nhạt phai được tình cảm với chàng Kim mà không nhạt phai được thì nàng còn dằn vặt, còn đau khổ. Không chỉ nhớ thương Kim Trọng mà Kiều còn xót thương cho cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin mình, không rõ các em có chăm sóc chu đáo không, có ai thay mình quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ không: Vừa mới xa nhà được hơn một tháng mà nàng đã cảm thấy xa lâu lắm. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã thể hiện một cách sinh động, cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Ngay lúc mình đau khổ, cô đơn, mất hết những gì quý giá nhất của một đời người mà Kiều vẫn còn thương nhớ, lo lắng cho những người thân đã chứng tỏ nàng là người vị tha, quan tâm đến người thân còn hơn cả chính bản thân mình.

Viết đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa Kim Trọng mối tình đầu thơ mộng, tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau. “Kiều ở lầu Ngưng Bích”là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.

Viết đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4

Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, là danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi của ông gắn liền với "Truyện Kiều". Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã nói lên tâm trạng cô đơn, xót xa, buồn tủi của Kiều, đặc biệt là ở 8 câu thơ cuối. Sau khi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ người tình, Kiều lại nghĩ đến thân phận hẩm hiu, cô đơn của mình. Kiều đưa mắt nhìn ra xa, nơi có cửa bể mênh mang để kiếm tìm một bóng hình, một hơi thở nhân gian. Nhưng Kiều chỉ nhìn thấy một chiếc thuyền nhỏ bé như bị nhấn chìm giữa biển khơi vô tận. Có lẽ, con thuyền ấy cũng chính là cô Kiều cô độc lẻ loi nơi lầu Ngưng Bích. Không tìm kiếm được ở xa, Kiều lại đưa mắt về gần. Kiều nhìn thấy giữ ngọn nước chảy trôi ấy một bông hoa trôi bồng bềnh vô định. Bông hoa ấy cũng tượng trưng cho số phận bấp bênh chìm nổi của Thúy Kiều. Ngọn cỏ ngoài kia xanh tươi là thế nhưng nó vẫn nhuốm màu tâm trạng mang một vẻ rầu rầu. Chân mây, mặt đất, cỏ cây đều xanh đấy nhưng nó chẳng đem lại sự tươi vui tràn đầy sức sống. Đúng thật "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nước biển ngoài kia bị gió cuốn trào, gió xô sóng, sóng va vào nhau tạo nên tiếng ầm ầm. Tiếng sóng biển thét gào phải chăng đang xót thương cho thân phận Thúy Kiều. hay chính lòng Kiều đang thét gào đau thương. Chỉ với 8 câu thơ ta thấy được tâm trạng xót xa đau đớn và cô độc của Thúy Kiều nơi lầu Ngưng Bích và qua đó cũng cảm nhận được giá trị nhân đạo mà tác giả gửi gắm.

Viết đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 5

Nhớ Kim Trọng, nàng nhớ về kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng không biết cảnh ngộ của mình vẫn đang hướng về mình, đang chờ tin mà uổng công vô ích, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Kiều nhớ Kim Trọng trong tâm trạng đau đớn, xót xa. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thủy chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Nhớ cha mẹ, nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Đó còn là nỗi xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Điều đó cho thấy 1 tấm lòng hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Nguyễn Du đặt nỗi nhớ Kim Trọng trước nỗi nhớ cha mẹ là tuân thủ đúng diễn biến tâm lí của nàng. Như vậy, 8 câu thơ là nỗi lòng thương nhớ của Kiều về người mình yêu- Kim Trọng và về cha mẹ.

4. Danh sách đề thi phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Đề 1: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Đề 2: Phân tích những giá trị trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của tác giả Nguyễn Du.

Đề 1: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một kiệt tác lớn được bạn bè quốc tế yêu thích đó chính là tác phẩm Truyện Kiều. Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo truyện Kiều của Nguyễn Du thành công về mặt nghệ thuật với bút pháp tả cảnh ngụ tình và miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc. Nguyễn Du đã đạt đến tình cao trong lịch sử với đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, miêu tả thành công nỗi cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc. Đoạn thơ dài 22 câu không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự việc tả cảnh ngụ tình với những ngôn từ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Thúy Kiều

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Với nét bút tả cảnh ngụ tình Nguyễn Du đã miêu tả thành công tâm trạng của Thúy Kiều với những các từ khóa xuân đã cho thấy tình cảnh của Kiều lâm vào cảnh chim lồng cá chậu bị giam lỏng và khóa kín tuổi xuân của mình. Từ khóa xuân không phải nói tới những cô gái bị cấm cung mà chính là sự mỉa mai chua xót cho thân phận nàng Kiều. Kiều trơ trọi giữa thời gian mênh mông với không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương đôi đất khách quê người, cô đơn bị đày vào chốn lầu xanh.

Lầu Ngưng Bích vốn là một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữu tình thơ mộng được thể hiện qua các từ ngữ non xa, trăng gần, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm kia. Tuy nhiên từ xưa đến nay Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong tình cảnh bị giam cầm và tha hương cô đơn như thế, Kiều nhìn khung cảnh với con mắt buồn thảm vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn đất thì chỉ thấy cồn cát nhấp nhô phía bên là bụi hồng.

Ta có thể thấy lầu Ngưng Bích chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh mây sớm Đèn Khuya chính là một vòng tuần hoàn khép kín của thời gian tất cả như kìm hãm Tuổi Thanh Xuân của Kiều sự sống của Kiều đã bị những thế lực tàn ác của xã hội phong kiến bóc chết từ đó khắc sâu thêm nỗi buồn nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy bẽ bàng buồn tủi bởi không ai chia sẻ và nàng chỉ biết làm bạn với mây với đèn với cảnh vật hoang vu. Trong nỗi cô đơn tuyệt vọng ấy kiều cảm thấy xa cách hoang vắng, bị giam cầm cách biệt với nơi đất khách quê người.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Khi ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng. Đây là một nét bút đặc sắc độc đáo và phù hợp với tâm lý thể hiện lòng chung thủy của Thúy Kiều. Các từ ngữ tưởng, trông chờ trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm nổi bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng Kiều. Càng nhớ về lời thề đôi lứa lời hẹn ước năm nào lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề còn ở đây mà nay mỗi người một ngả khiến Thúy Kiều ân hận, xót xa giống như mình là một kẻ phụ tình chàng.

Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, lo âu cho dù mỗi người một phương nhưng tình cảm của nàng dành cho kim trọng là mãi mãi và không thể phai mờ. Càng nghĩ kều càng thấy lo lắng phải bật lên câu hỏi tu từ. Phải biết đến bao giờ nàng mới có thể rửa sạch được những ô uế của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng. Không chỉ nhớ người yêu, ở nơi lầu cao ấy nàng cũng nhớ về cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Ngôn ngữ độc thoại kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng buồn của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ hôm mai, cách mấy nắng mưa diễn tả nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng. Kiều thương cho cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, ngày trông ngóng, nàng lo cho cha mẹ già yếu ở nhà không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh cùng với điển tích Sơn Lai, gốc tử đã nói lên tâm trạng nhớ thương và thể hiện Kiều là một người con hiếu thảo.

Nàng lo sợ ở nơi quê hương mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại càng ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của một người con. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích. Phải lưu lạc tới nơi đất khách quê người chính bản thân Kiều mới là người đáng thương nhất, thế nhưng với tâm hồn và với những nét tính cách đẹp cao thượng của mình nàng luôn hy sinh bản thân mình, quên đi cảnh ngộ hiện tại của bản thân để lo lắng nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ, những người thân của Kiều. Nỗi nhớ đó của Kiều rất chân thực và có chiều sâu để từ đó ta có thể thấy đây là một người con hiếu thảo, một người tình chung thủy và một con người giàu lòng vị tha.

Tâm trạng buồn tủi của Kiều không chỉ còn ở trong lòng nữa mà đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng và diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Khung cảnh mở ra cho chúng ta thấy được đây là một cảnh hoàng hôn cửa bể chiều hôm gợi cho chúng ta hình ảnh những tia nắng cuối ngày, phản chiếu trên mặt biển xanh khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm. Có cái gì đó tha thiết và nỗi nhớ mong, Kiều dường như tiếc nuối những ngày tháng trước kia. Các từ ngữ thấp thoáng, xa xa diễn tả sự lẻ loi, đơn độc giống như tình cảnh của Kiều bây giờ.

Một mình nơi xứ người bơ vơ nơi lầu ngưng Bích, Kiều chỉ biết nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, mong chờ một con thuyền để có thể cứu nàng. Nhưng chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở phía xa xa, lúc mờ lúc hiện Thuyền ai lênh đênh mất hút phía chân trời xa giống như cuộc đời Kiều lênh đênh chẳng biết chơi về đâu. Chẳng biết bao giờ mới có thể trở về nhà báo hiếu cho cha mẹ

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Cánh hoa mỏng manh dập dìu trong dòng nước bé nhỏ không chống chọi được với sức của mọi nước giống như chính thân phận Kiều trong xã hội cũ. Tuy là một người có đức có tài, có nét đẹp nhưng chính cường quyền áp bức đã vùi dập nàng, vùi dập tài năng của nàng. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi trôi theo dòng đời vô định, chẳng biết đi về đâu. Nhìn cánh hoa vùi dập nàng Kiều lại nhớ tới Kim Trọng, càng buồn tủi và xót xa cho thân phận của mình:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Trái ngược với cái tên của lầu màu xanh qua con mắt của Kiều trở nên thật sầu thảm với từ láy rầu rầu gợi lên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa xơ xác. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều với một tài sắc vẹn toàn đáng lẽ nàng phải có một cuộc sống đầy đủ, phải có một cuộc đời hạnh phúc thế nhưng Tuổi Thanh Xuân ấy sẽ phai tàn và vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hy vọng nhưng nay đã tàn úa giống như niềm tin của Thúy Kiều đang dần cạn với nỗi xót xa ngày càng dâng cao trong Thúy Kiều.

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm, trong cảnh gió cuốn mặt dềnh giống như bão tố phong ba đang chờ đợi Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến, giống như tiếng sóng ở ngoài xa, tiếng sóng ầm ầm chính là báo hiệu một tương lai đầy sóng gió khiến Kiều sợ hãi.

Với điệp ngữ Buồn trông đặt ở bốn câu đầu trong bài thơ giống như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ trầm trầm và những thanh bằng đã nhấn mạnh một nỗi buồn đang ngày càng dâng lên trong tâm trạng của Thúy Kiều, cùng với cảnh vật đang càng lúc càng mênh mang những từ láy xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm như những con sóng đang trào dâng trong tâm hồn của Kiều.

Đoạn thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều cũng như trong văn học trung đại Việt Nam. Qua đoạn thơ chúng ta có thể hiểu biết thêm về tính cách của Kiều. Đó là một người chung thủy, một người con hiếu thảo và là một con người của tấm lòng vị tha. Đồng thời ta cảm nhận được sự khắc nghiệt của xã hội phong kiến, đã đẩy những con người đáng thương như thế kia và hoàn cảnh éo le.

Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Thúy Kiều và chứng tỏ được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du. Chính sự bao dung, đồng cảm sẻ chia của Nguyễn Du đã đi vào tâm tưởng bằng thế hệ.

Đề 2: Phân tích những giá trị trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của tác giả Nguyễn Du

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc Việt Nam là danh nhân văn hóa thế giới . Tác phẩm Truyện Kiều là một trong những tác phẩm đỉnh cao của nền văn học Việt Nam, là kết tinh của những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật và ngòi bút miêu tả nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình đại tài của Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy tâm trạng cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn đầu xanh Kiều đã rất tủi nhục và định tự vẫn. Nhưng Tú Bà sợ Kiều chết đi thì bị mất một mớ tiền oan nên giả vờ chờ Kiều bình phục sẽ gả Kiều đi ở một nơi tử tế rồi đưa Kiều giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu mới đê tiện của mình. Đoạn trích mở đầu bằng khung cảnh hoang vắng ở lầu Ngưng Bích:

Trước lầu Ngưng Bích khóa Xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Khóa xuân là cách nói mỉa mai của tác giả đó là khoảng thời gian Kiều bị Tú Bà giam lỏng. Khi Kiều vừa trải qua những đau khổ nay lại bị nhốt ở nơi vắng vẻ, tiêu điều nàng cảm thấy cô đơn và chán trường

Cảnh non xa tấm Trăng gần ở chung

Hình ảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ giữa sông nước từ trên lầu cao nhìn ra xung quanh là cả một không gian bát ngát mênh mông tất cả đều xa vời.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Hai câu thơ tiếp theo gợi lên thời gian không gian mênh mông, hoang vắng. Từ lầu Ngưng Bích đưa ánh mắt nhìn ra xa chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát mù mịt. Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn, nàng không có ai bầu bạn, tâm trạng Kiều bị dồn vào đến tận cùng của nỗi tuyệt vọng

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Khi sống một mình giữa một cái lầu trơ trọi trong không gian thời gian hoang vắng, không có sự giao lưu giữa người với người. Bẽ bàng chính là tâm trạng chán trường và xấu hổ của Thúy Kiều. Cụm từ mây sớm đèn khuya diễn tả thời gian tuần hoàn khép kín lặp đi lặp lại. Thời gian, không gian ở đây giống như đang kìm hãm con người. Ở đó Kiều chỉ biết làm bạn với mây, đêm đến làm bạn với ngọn đèn. Dù ban ngày hay ban đêm Kiều vẫn luôn phải đối mặt với những nỗi cô đơn buồn tủi. Trong hoàn cảnh cô đơn như thế con người ta thường nghĩ về những người thân yêu nhất của mình và Thúy Kiều cũng vậy, Kiều nhớ tới người thân, nhớ tới người yêu đang ngày đêm mong mỏi mình trở về. Tám câu thơ tiếp theo của đoạn trích đã miêu tả nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều. Người nàng nhớ đầu tiên đó chính là Kim Trọng - mối tình đầu của nàng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tiên sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Chắc hẳn sẽ có nhiều người thắc mắc tại sao Thúy Kiều không nhớ cha mẹ mình đầu tiên mà lại nhớ Kim Trọng . Có lẽ việc bán mình chuộc cha đã coi như nàng làm tròn bổn phận con cái với cha mẹ. Bao nhiêu chuyện xảy đến với nàng để giờ đây khi ở lầu Ngưng Bích nàng nhớ về người yêu, nàng tự trách bản thân là người đã phụ tình Kim Trọng, nàng nhớ đến lời thề nguyền đôi lứa năm xưa khi nàng và Kim Trọng đã cùng nhau nâng chén rượu hẹn ước dưới ánh trăng. Nàng ở lầu Ngưng Bích và nghĩ về Kim Trọng đang ngóng trông tin tức của mình, nỗi nhớ Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa . Câu thơ tấm thân gột rửa bao giờ cho phai, chúng ta có thể cảm nhận được sự đau đớn về tình yêu son sắc mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng nhưng tình yêu đó đã bị bọn buôn người làm vùi dập hoen ố. Một câu hỏi được đặt ra đó là làm sao và đến bao giờ có thể gột rửa nỗi dơ bẩn này. Điều đó thể hiện tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng luôn son sắc và không bao giờ phai nhạt. Kiều không chỉ đau đớn mà còn thấy rất hổ thẹn vì đã phụ chàng Kim, phụ sự mong ngóng chờ đợi của chàng. Các từ ngữ tưởng "trông chờ", "bơ vơ" đã thể hiện được sự độc thoại nội tâm của Thúy Kiều, nàng nhớ người yêu tha thiết, xót xa cho mối tình trong sáng của mình.

Khi nhớ về chàng Kim Kiều lại nhớ về cha mẹ

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Lại một lần nữa Kiều lại nghĩ về những người ruột thịt của mình. Khi nghĩ tới cha mẹ nàng vô cùng thương xót, nàng thương cha mẹ khi sáng chiều tựa cửa ngóng tin con, nàng xót xa khi cha mẹ đã đến tuổi nghỉ ngơi mà không có ai chăm nom, nàng lo lắng không biết ai sẽ là người chăm lo cha mẹ khi về già. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc tử đã nói nên tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng đã tưởng tượng ra nơi quê nhà của mình tất cả đã đổi thay, cha mẹ ngày một già yếu. Cụm từ cách mấy nắng mưa, thể hiện được thời gian qua bao mùa mưa nắng đồng thời nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Khi nhớ về cha mẹ Kiều luôn ân hận vì cho rằng mình đã phụ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Với 8 câu thơ Nguyễn Du đã miêu tả trọn vẹn nỗi nhớ của Thúy Kiều với Kim Trọng, về cha mẹ người đã sinh thành và nuôi dưỡng Thúy Kiều khôn lớn với một nỗi nhớ dai dẳng và da diết.

Tám câu thơ cuối bài thơ với tâm trạng cô đơn buồn tủi Thúy Kiều lại càng thể hiện rõ nét qua bức tranh tâm trạng. Điệp ngữ Buồn trông được xuất hiện ở đầu mỗi câu thơ khiến cho nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Mỗi câu thơ lại là một cảnh, một tâm trạng của Kiều nhưng tất cả là nỗi đau sự tuyệt vọng. Kiều thương thay cho số kiếp của mình, thương những người thân yêu của mình. Đây có thể coi là đoạn thơ hay nhất trong tác phẩm Truyện Kiều, ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống ngôn ngữ mang tính ước lệ

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Cửa bể mênh mông trong một buổi chiều hoàng hôn càng làm tăng nỗi buồn, sự cô đơn của những người con xa xứ. Thuyền ai lúc ẩn lúc hiện, thấp thoáng cánh buồm xa xa đầy ám ảnh. Thúy Kiều muốn tìm một người để đồng cảm với mình. Hình ảnh con thuyền xuất hiện là hình ảnh sự sống của con người, nhưng con thuyền ấy lại thấp thoáng xa xa, lúc mờ lúc hiện, qua đó ta thấy được hình ảnh bơ vơ không nơi nương tựa của Thúy Kiều;

Buồn trông gió cuốn mới sa

Hoa cho man mác biết là về đâu

Khi nhìn những cánh buồm ngoài khơi xa mà chẳng thể nào với được, Kiều lại đưa ánh mắt về gần để tìm sự đồng cảm bởi cảnh vật. Thế nhưng hình ảnh Hoa trôi man mác biết là về đâu điều đó như dự báo trước cho kiếp đời lưu lạc, lênh đênh của Kiều. Kiều không biết cuộc đời nàng sẽ đi về đâu giữa dòng đời vô định ấy. Hình hoa bị những con sóng biển vùi dập cũng như cuộc đời Kiều bị những thế lực cường hào áp bức phong kiến đã đẩy nàng vào cuộc đời bi kịch. Đáng ra với tài năng và vẻ đẹp của mình Kiều đã phải có một cuộc sống hạnh phúc thế nhưng tài hoa bạc mệnh sinh ra trong một xã hội mà quyền con người không có kiểu đã phải chịu biết bao tủi nhục.

Khi nhìn ra xa Kiều chỉ thấy trên cái nền xanh mờ mịt là màu sắc tàn úa vàng héo của cỏ

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Hình ảnh cỏ ở đây không còn là một hình ảnh cỏ tươi như Tiết Thanh minh mà đã trở nên héo úa. Từ rầu rầu thể hiện nỗi buồn man mác được nhân lên gấp bội khi nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa buồn vừa lắng nghe. Nàng đã tập trung lắng nghe tiếng gió, tiếng ầm ầm của sóng. Tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút lo âu hãi hùng

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Từ ầm ầm thể hiện âm thanh lớn, bất ngờ. Điều đó phải chăng là dự báo cho những tai họa đang bủa vây mà Kiều sắp phải đối mặt trong tương lai.

Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều cảnh được quan sát từ xa đến gần, màu sắc chuyển từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn của Kiều được miêu tả từ buồn man mác đến lo âu khiếp sợ. Tất cả đều được miêu tả theo chiều tăng tiến làm nhấn mạnh hơn nỗi buồn, cô quạnh và thân phận đáng thương của Kiều. Chỉ với 8 câu thơ những điệp ngữ Buồn trông được đặt ở đầu câu và xuất hiện bốn lần điều đó càng thể hiện nỗi buồn da diết của Kiều ảnh hưởng đến cảnh vật. Bởi xưa nay người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, đó chính là nỗi buồn, nỗi đau của kiếp người lưu lạc.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều giúp ta hiểu thêm về Thúy Kiều. Nàng là một người tình chung thủy, một người con hiếu thảo, luôn hi sinh hết mình vì mọi người và bỏ qua những nhu cầu của bản thân. Đồng thời qua đoạn trích ta có thể thấy sự đồng cảm sẻ chia và tinh thần nhân đạo của nhà văn Nguyễn Du dành cho nhân vật, cũng như dành cho bao kiếp người trong xã hội cũ. Chính những cảm xúc chân thành của nhà thơ đã gieo và lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Đây là một đoạn trích rất hay và đặc sắc. Qua tác phẩm ta như hiểu được và đồng cảm hơn đối với những con người trong xã hội cũ, họ có tài năng có vẻ đẹp nhưng lại bị xã hội vùi dập và bị đẩy đến bước đường cùng sống cuộc đời lênh đênh không bến đỗ.

Trung Kiên

Nguồn Đắk Nông: https://baodaknong.vn/bai-phan-tich-doan-trich-kieu-o-lau-ngung-bich-trich-truyen-kieu-van-mau-lop-9-224677.html