Bài toán cân bằng lợi ích các bên giữa 'làn sóng' áp thuế tối thiểu toàn cầu

Chính sách thuế tối thiểu toàn cầu khiến Việt Nam đứng trước những lựa chọn khó khăn, áp dụng mức thuế tối thiểu 15% sẽ giúp ngân sách có thêm nguồn thu, nhưng phải đối mặt với những phản ứng từ các doanh nghiệp FDI lớn. Ngược lại, nếu không áp dụng mức thuế tối thiểu 15%, các quốc gia khác sẽ được đánh thuế với phần thuế chênh lệch này.

Cuộc cạnh tranh thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bằng ưu đãi thuế đã có từ rất nhiều năm trước. Năm 2001, Việt Nam từng đề nghị miễn thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) trong 10 năm để thu hút Canon đầu tư. Nhưng Philippines cạnh tranh với Việt Nam bằng cách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 8-12 năm.

Năm 2014, Indonesia áp dụng miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 10 năm để thu hút Samsung, còn Việt Nam đưa ra điều kiện miễn thuế lên tới 15 năm.

Một báo cáo kết hợp của Oxfam, VEPR và Prakasa công bố năm 2020 cho thấy thuế suất TNDN trung bình của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã giảm từ mức 25% xuống mức 21,7% giai đoạn 2010-2020. Thậm chí, có quốc gia đã cho phép doanh nghiệp FDI nghỉ thuế (tax holiday) lên đến 20 năm, rồi lại tiếp tục giảm thuế.

Nhưng cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư bằng ưu đãi thuế sẽ sớm dừng lại khi chính sách thuế tối thiểu toàn cầu, cho phép các quốc gia đánh thuế tối thiểu 15% với các với các công ty đa quốc gia có tổng doanh thu từ 750 triệu euro trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề gần nhất và có tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng doanh thu từ 10%, dự kiến được Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU áp dụng vào năm sau. Chính sách này khiến các quốc gia vốn hút FDI nhờ ưu đãi thuế như Việt Nam lâm vào thế khó do phải bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của nhà đầu tư và quyền thu thuế của Nhà nước.

Hoạt động sản xuất bên trong nhà máy của một doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam. Ảnh minh họa: Lê Hoàng

Hoạt động sản xuất bên trong nhà máy của một doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam. Ảnh minh họa: Lê Hoàng

Thế khó của Việt Nam

Chia sẻ tại một hội thảo gần đây, bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Phó giám đốc phụ trách đối ngoại của Canon Việt Nam, cho biết ưu đãi thuế là một trong những yếu tố quan trọng trong việc duy trì sản xuất quy mô lớn tại Việt Nam. Tập đoàn thường xem xét khả năng, chi phí, tính hiệu quả ở các nước để cân nhắc về vốn đầu tư, số sản lượng. Họ hiện có 130 nhà cung cấp và lượng sản xuất tại Việt Nam chiếm 50% tổng sản lượng toàn cầu. Việt Nam cũng đang phải cạnh tranh với các nước khác, như Philippines – nơi cũng có nhiều cơ sở sản xuất của Canon.

“Nếu áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam nên cân nhắc các chính sách khác nhằm đảm bảo được những ưu đãi theo luật cũng như những cam kết với doanh nghiệp trước đó để giữ dòng vốn và thu hút đầu tư mới”, bà nói.

Lấy ví dụ ở Thái Lan, bà kể, chính phủ nước này đã nhanh chóng tìm cách bù đắp cho doanh nghiệp bằng cách hỗ trợ tiền điện.

Tương tự, đại diện của Bosch Việt Nam nói có nhiều kế hoạch đầu tư mới nhưng lo ngại về chính sách thay đổi.

Đại diện Foxconn Việt Nam cũng nói vẫn có kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam nhưng quan tâm nhất là pháp luật có hồi tố, tức sau này có bị truy thu thuế đã ưu đãi không.

“Chúng tôi mong muốn có hướng dẫn, cam kết để yên tâm”, vị này nói. Hiện một số dự án đầu tư công nghệ cao tại Việt Nam nhận ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian dài.

Trước chính sách mới, không chỉ phía doanh nghiệp, những nhà làm chính sách cũng đau đầu.

Ông Đỗ Văn Sử, Cục phó Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT), cho biết khi trụ cột 2 (quy định về thuế suất tối thiểu toàn cầu) được chính thức áp dụng, các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ không còn mang lại lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI.

Làm rõ, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thứ trưởng Bộ KHĐT, cho biết khi thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng, hầu hết biện pháp ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành (miễn thuế, thuế suất ưu đãi dưới 15%) sẽ không còn giá trị với các doanh nghiệp thuộc đối tượng chịu thuế tối thiểu toàn cầu.

“Điều này dẫn đến chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam sẽ kém hấp dẫn hơn đối với các tập đoàn, doanh nghiệp lớn”, bà Ngọc nói.

Tuy nhiên, nếu Việt Nam không thu thêm, các doanh nghiệp thuộc đối tượng phải áp dụng thuế này, vẫn phải nộp bổ sung tại nước khác. Do đó, bà Ngọc cho rằng phải tìm cách điều chỉnh chính sách ưu đãi tương thích với thuế tối thiểu toàn cầu, đảm bảo quyền đánh thuế, vừa ít tác động nhất đến các doanh nghiệp FDI đang có hoạt động sản xuất – kinh doanh tại Việt Nam.

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam, cho rằng ưu đãi thuế vẫn luôn là một trong những công cụ quan trọng thu hút đầu các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam. Nhưng khi áp dụng mức thuế suất tối thiểu 15% thì chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở cả tính hồi tố với các tập đoàn lớn thuộc điều chỉnh thuế suất tối thiểu và cả các tập đoàn mới chuẩn bị chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư.

Do đó, Việt Nam cần thực hiện sớm thuế tối thiểu, nhưng cũng phải tìm cách điều chỉnh chính sách ưu đãi khác tương thích để vừa đảm bảo quyền đánh thuế, vừa ít tác động nhất đến các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam.

Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, kết hợp các giải pháp về thuế

Là thành viên chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) từ năm 2017, cho nên yêu cầu sớm triển khai thực hiện quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, hướng tới mục tiêu cải cách hệ thống thuế, chống xói mòn nguồn thu, lành mạnh hóa môi trường đầu tư là vấn đề cấp thiết với Việt Nam.

Phó thủ tướng Lê Minh Khái yêu cầu Bộ Tài chính phân tích đánh giá thật đầy đủ, toàn diện tác động của thuế suất tối thiểu toàn cầu đối với Việt Nam, trong đó tập trung vào các vấn đề về ngân sách nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài.

Với bối cảnh hiện tại, bà Nguyễn Thị Cúc khuyến nghị các cơ quan quản lý cân nhắc giải pháp áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMTT) để giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác như một số quốc gia trong khu vực đang áp dụng như Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines.

Đồng quan điểm, ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó tổng giám đốc tư vấn thuế thuộc Công ty TNHH Deloitte Việt Nam, khuyến nghị các cơ quan quản lý nên áp dụng QDMTT, là cơ chế đạt chuẩn theo quy định của OECD, từ năm 2024, để đảm bảo chủ động giữ quyền đánh thuế của Việt Nam, tránh mất đi nguồn thu thuế bổ sung tiềm năng từ thu nhập phát sinh tại quốc gia của mình và rủi ro bị đánh thuế bổ sung ở bất kỳ quốc gia khác.

Cũng theo ông Tuấn, các cơ chế khác không đạt chuẩn như áp dụng thuế suất thuế TNDN 15% sẽ không thống nhất theo công thức tính của OECD như QDMTT, dẫn đến tổng nghĩa vụ thuế của toàn tập đoàn sẽ bị tăng lên so với việc tính toán thuế bổ sung theo QDMTT hay IIR.

“Việc này vừa gây thiệt hại về tài chính cho nhà đầu tư, vừa gây khó khăn trong việc áp dụng và không thể hiện được sự hội nhập chính sách thuế của Việt Nam với quốc tế”, ông Tuấn cho biết.

Bên cạnh các vấn đề liên quan đến thuế, bà Cúc cho rằng cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn để bù đắp một phần cho doanh nghiệp thông qua các giải pháp, gồm tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ phục vụ cho sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp; có kế hoạch và đầu tư phát triển sớm vùng nguyên liệu đủ cả về số lượng, chất lượng, tăng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu nội địa nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư; hỗ trợ nâng cao năng suất và khả năng sáng tạo của doanh nghiệp bằng các biện pháp phù hợp, không trái thông lệ quốc tế.

Ngoài ra, cần chú trọng nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam, qua đó giảm thiểu, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các chi phí ngầm mà các doanh nghiệp đang gánh chịu. Thêm vào đó, tăng cường cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đảm bảo thông thoáng, rõ ràng minh bạch, thống nhất, dễ hiểu, dễ làm… giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

“Khảo sát từ nhiều doanh nghiệp nước ngoài cho thấy, các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam không chỉ vì được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp mà quan trọng hơn là các yếu tố về lực lượng lao động, vị trí địa lý. Thay vì ưu đãi thuế chưa hợp lý, việc cắt giảm các chi phí như vận chuyển, cấp quyền khai thác mỏ… sẽ mang lại giá trị gia tăng tốt hơn cho môi trường đầu tư Việt Nam”, bà Cúc nói.

Với chính sách hỗ trợ, TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng của BIDV, khuyến nghị cần xây dựng chính sách cho hai nhóm nhà đầu tư.

Với nhà đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, có thể hỗ trợ về tiền thuê đất, cho phép tính một số khoản được khấu trừ thuế, đào tạo nguồn nhân lực, chi phí R&D, giải phóng mặt bằng, nhà ở công nhân. Tuy nhiên, nên áp dụng mức độ hỗ trợ khác nhau với từng nhóm nhà đầu tư, loại dự án.

Với nhà đầu tư vào Việt Nam từ đầu năm 2024, có thể áp dụng một số chính sách hỗ trợ tương tự, thậm chí cao hơn đối với các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI.

Theo ông Lực, việc hỗ trợ cần dựa trên bốn nguyên tắc cụ thể: cần phải đạt chuẩn của OECD; tránh hỗ trợ theo hình thức cào bằng, phải gắn với từng lĩnh vực, quy mô và công nghệ; phải khả thi trong hỗ trợ; phải phù hợp với chiến lược đầu tư nước ngoài.

Với riêng giải pháp hỗ trợ bằng tiền mặt được nhiều doanh nghiệp FDI đề xuất, bà Cúc và ông Lực đều cho rằng không nên áp dụng hình thức hỗ trợ này do không phù hợp với quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, đồng thời tránh việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.

Vân Phong

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/bai-toan-can-bang-loi-ich-cac-ben-giua-lan-song-ap-thue-toi-thieu-toan-cau/