Bản án nữ quyền, góc nhìn đa chiều từ sự 'nhạy cảm giới'
Tại Hội thảo 'Hướng đến bản án nữ quyền Việt Nam' các chuyên gia phân tích về một số bản án tiêu biểu, được tiếp cận lại dưới lăng kính nữ quyền.
Ngày 1-8, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM (Trường Đại học Kinh tế - Luật ) tổ chức Hội thảo khoa học “Hướng đến bản án nữ quyền Việt Nam” (VFJ 2025) với sự tài trợ của Quỹ Rosa-Luxemburg-Stiftung Southeast Asia.
Tại Hội thảo, các chuyên gia, giảng viên, nhà nghiên cứu cùng trao đổi, phân tích và thảo luận về một số bản án tiêu biểu trong hệ thống tư pháp Việt Nam, được tiếp cận lại dưới lăng kính nữ quyền.
Qua đó, các diễn giả cũng đề xuất những định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ tốt hơn những quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS-TS Lê Vũ Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Luật, chia sẻ: Ngày nay, yêu cầu thúc đẩy bình đẳng giới và xóa bỏ phân biệt đối xử trên cơ sở giới đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật của nhiều quốc gia.

PGS-TS Lê Vũ Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Luật, phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: NGUYỄN BÌNH
Lý thuyết pháp luật nữ quyền, với tư cách một công cụ phản biện hữu ích trong khoa học pháp lý đang đóng vai trò quan trọng trong việc nhận diện các cấu trúc bất bình đẳng tiềm ẩn trong pháp luật hiện hành, từ đó góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật theo hướng công bằng, nhân văn và bao trùm hơn.
Việc nghiên cứu và so sánh cách tiếp cận pháp luật nữ quyền giữa các hệ thống pháp luật khác nhau là chìa khóa để chia sẻ kinh nghiệm, hoàn thiện chính sách và thúc đẩy tiến bộ giới một cách thực chất, bền vững.
Tại hội thảo, nhiều nội dung được các chuyên gia quan tâm bao gồm cả vụ án dân sự, kinh tế, hình sự.
Mang thai hộ và lý thuyết ba chiều của Nancy Fraser
Thông qua việc phân tích một bản án của TAND tỉnh Quảng Ninh trong việc xác nhận cha con và quyền nuôi con sau khi sinh từ hợp đồng mang thai hộ giữa một người đàn ông Trung Quốc và phụ nữ Việt Nam; TS Nguyễn Trương Anh Trâm, Trường Đại học Kinh tế - Luật, dựa trên nền tảng lý thuyết ba chiều của Nancy Fraser (tái phân phối - thừa nhận - đại diện), chỉ ra những bất bình đẳng bị bỏ sót, đặc biệt là sự im lặng pháp lý đối với phụ nữ mang thai hộ.

TS Nguyễn Trương Anh Trâm, Trường Đại học Kinh tế - Luật, trình bày tham luận. Ảnh: NGUYỄN BÌNH
Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Mang thai hộ vì mục đích thương mại được xem là hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Dù mang thai hộ nhằm mục đích thương mại hay mục đích nhân đạo thì cũng cần xem xét đến quyền con người của những đối tượng liên quan. Dưới góc nhìn nữ quyền thì bản thân người mang thai hộ cũng cần được đảm bảo một số quyền lợi nhất định. Đó là thông điệp mà bài tham luận muốn hướng đến theo lý thuyết ba chiều của Nancy Fraser.
PGS-TS Nguyễn Ngọc Điện (người tham gia điều phối hội thảo) bày tỏ, lý thuyết ba chiều của Nancy Fraser dưới góc nhìn nữ quyền giúp soi rọi những trường hợp mang thai hộ không đúng quy định pháp luật. Số phận của các bên liên quan trong trường hợp mang thai hộ không đúng quy định pháp luật cũng cần được lưu ý, bảo vệ, đặc biệt là quyền lợi của đứa trẻ là sản phẩm của mang thai hộ. Luật bảo vệ được trật tự xã hội nhưng quyền lợi của các bên lại không được đảm bảo.
Các đại biểu cũng đặt câu hỏi: Liệu có cần khung pháp lý nhân đạo hơn để bảo vệ người phụ nữ mang thai hộ? Thực tế hiện nay tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại diễn ra khá nhiều, người mang thai hộ vì mục đích thương mai bị coi như một món hàng.
PGS-TS Nguyễn Ngọc Điện phân tích sở dĩ họ bị coi như món hàng một phần là vì pháp luật không công nhận mang thai hộ vì mục đích thương mại. Ông bày tỏ quan điểm cần có khung pháp lý chi phối về hành vi này.

PGS-TS Nguyễn Ngọc Điện và PGS-TS Nguyễn Thị Hồng Nhung (Trường Đại học Kinh tế - Luật) điều phối hội thảo. Ảnh: NGUYỄN BÌNH
Nếu người mang thai hộ đòi quyền nuôi con thì pháp luật sẽ giải quyết ra sao? Nếu công nhận quyền làm mẹ của người mang thai hộ thì hậu quả pháp lý về sau sẽ ra sao cũng là thắc mắc của nhiều đại biểu.
Tài sản khi ly hôn, công nhận cả đóng góp vô hình
Một nội dung nữa được nhiều đại biểu quan tâm đó là phân chia tài sản chung khi ly hôn.
TS Nguyễn Thái Cường, khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP.HCM, phân tích một bản án ly hôn cụ thể dưới góc nhìn pháp luật nữ quyền, tập trung vào vấn đề xác định và phân chia tài sản chung, riêng trong hôn nhân. Tác giả chỉ ra rằng các cấp tòa án vẫn còn xem nhẹ vai trò và đóng góp phi tài chính của người vợ, đặc biệt khi tài sản đứng tên người chồng. Qua việc viết lại bản án, bài viết đề xuất cách tiếp cận công bằng hơn, bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ sau ly hôn. Đồng thời, bài viết kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực tiễn xét xử để phản ánh đúng nguyên tắc bình đẳng giới trong phân chia tài sản.
Liên quan đến vấn đề này, PGS-TS Nguyễn Ngọc Điện phân tích, quyền sở hữu phải căn cứ vào luật. Nếu là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì áp dụng nguyên tắc chia đôi. Tuy nhiên, cần xét đến các yếu tố khác như công sức đóng góp.
"Luật Hôn nhân và Gia đình có Điều 59 quy định nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Mục tiêu của nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền lời của người phụ nữ, giúp họ ổn định cuộc sống sau ly hôn" - PGS-TS Nguyễn Ngọc Điện phân tích thêm.
PGS-TS Nguyễn Ngọc Điện đánh giá Việt Nam ta có được quyền bình đẳng tốt hơn so với nhiều nước trong khu vực; tuy nhiên tương quan về nữ quyền thì người phụ nữ vẫn còn bị yếu thế. Ông nhấn mạnh, bảo vệ quyền lợi người phụ nữ là trong cả trong gia đình và ngoài xã hội.
Nhiều đại biểu cho rằng thực tế không ít trường hợp phụ nữ lấy chồng về phải ở nhà nội trợ, lo cho con cái,… mặc dù họ không trực tiếp tạo ra tài chính nhưng công sức đóng góp của họ là rất lớn, cần được ghi nhận.
Quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ
Chủ đề về bản án hình sự dưới lăng kính nữ quyền cũng thu hút sự tham gia đóng góp ý kiến của các chuyên gia.
ThS Đặng Thị Hoài (Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) trình bày tham luận về quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ dưới 16 tuổi bị xâm hại tình dục dẫn đến mang thai, sinh con. Phân tích một bản án hình sự xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Bình Thuận, ThS Đặng Thị Hoài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử dựa trên quan điểm “lấy nạn nhân làm trung tâm”, bảo đảm quyền khai báo và phục hồi theo thông lệ quốc tế và lý thuyết pháp luật nữ quyền.

ThS Đặng Thị Hoài, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trình bày tham luận. Ảnh: NGUYỄN BÌNH
ThS Đặng Hoài Thu cho rằng quyền tiếp cận công lý của trẻ em gái bị xâm hại tình dục luôn gặp nhiều thách thức, cản trở đến từ sự yếu kém của cơ chế pháp lý, từ yếu tố tâm lý (của nạn nhân, người thân, xã hội), từ yếu tố văn hóa - xã hội - gia đình (đặc biệt là trong cấu trúc quyền lực gia đình gia trưởng).
Vì vậy, trong quá trình tố tụng, các cơ quan có thẩm quyền cần sử dụng "lăng kính giới" để áp dụng pháp luật một cách phù hợp, để bảo đảm thực tiễn xét xử có thể phản ánh và kiến tạo công lý thực chất cho phụ nữ và nhóm yếu thế.
Đối với những vụ án mà nạn nhân là nữ dưới 16 tuổi, ngoài luật sư chỉ định thì rất cần một người hỗ trợ tâm lý để nạn nhân có cơ hội lên tiếng, bày tỏ nỗi lòng.
PGS-TS Phan Thị Lan Hương, Trường Đại học Luật Hà Nội (người tham gia điều phối Hội thảo), phân tích thêm về việc hỗ trợ nạn nhân trong và sau quá trình tố tụng. Nạn nhân ở đây là cả người bị xâm hại và đứa trẻ được sinh ra từ sự xâm hại.