Bán cá, tôm: tung hoành sân khách nhưng ế sân nhà

Thủy sản Việt Nam chinh phục rất tốt thị trường xuất khẩu khi mang về 10 tỉ đô la Mỹ kim ngạch mỗi năm. Thế nhưng, với thị trường nội địa, việc bán thủy sản cho khoảng 100 triệu dân vẫn còn hạn chế...

Bán thủy sản nội địa hạn chế dù xuất khẩu 10 tỉ đô/năm. Ảnh: Trung Chánh

Bán thủy sản nội địa hạn chế dù xuất khẩu 10 tỉ đô/năm. Ảnh: Trung Chánh

Xuất 10 tỉ đô/năm, nhưng gặp khó “sân nhà”

Báo cáo của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho thấy năm ngoái, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt khoảng 10 tỉ đô la Mỹ, tăng 12% so với năm trước. Trong đó, tôm đạt 3,9 tỉ đô la Mỹ; cá tra 2 tỉ đô la Mỹ; cá ngừ 989 triệu đô la Mỹ; mực và bạch tuộc đạt 657 triệu đô la Mỹ; cua ghẹ và giáp xác khác mang về 324 triệu đô la Mỹ và phần còn lại là các loại thủy sản khác.

Còn trong nửa đầu năm nay, thủy sản tiếp tục mang về cho Việt Nam 5,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 20% so với cùng kỳ, trong đó, tôm đạt gần 2,1 tỉ đô la Mỹ, cá tra hơn 1 tỉ đô la Mỹ, cá ngừ 473 triệu đô la Mỹ và phần còn lại là cua ghẹ, giáp xác và các loại thủy sản khác.

Thủy sản Việt Nam hiện được tiêu thụ trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU) và Hàn Quốc là những thị trường xuất khẩu chủ lực của doanh nghiệp Việt Nam.

Qua những con số như nêu ở trên có thể thấy ngành thủy sản Việt Nam nói chung và doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này nói riêng đã khai thác khá tốt thị trường xuất khẩu thời gian qua.

Tuy nhiên, nhìn sang khía cạnh thị trường nội địa, việc tiêu thụ vẫn còn nhiều hạn chế, dù là quốc gia sản xuất, khai thác và cung ứng lượng lớn thủy sản cho quốc tế.

Ông Nguyễn Anh Đức, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, cho biết trong bối cảnh thị trường xuất khẩu thủy sản có những khó khăn, nhất là vấn đề thuế quan, cạnh tranh gay gắt với các nước xuất khẩu, việc khai thác thị trường nội địa là cần thiết.

Tuy nhiên, việc bán thủy sản cho thị trường nội địa còn hạn chế khi tỷ lệ tiêu dùng phân khúc sản phẩm này so với tổng tiêu dùng thực phẩm hàng ngày của Việt Nam chỉ chiếm 20,1%. Đây là con số khá thấp, bởi nếu so với Nhật Bản, hiện tỷ lệ tiêu dùng thủy sản của quốc gia này chiếm đến 50% trong tổng tiêu dùng thực phẩm. “Nhật Bản khuyến khích, có chính sách tiêu dùng thủy sản để đảm bảo sức khỏe, trí tuệ người dân”, ông cho biết.

Được biết, tổng sản lượng thủy sản nuôi và khai thác của Việt Nam năm ngoái đạt 9,5 triệu tấn, tăng 1,8 triệu tấn so với con số của năm 2018, trong đó, 58% sản lượng được cung cấp từ khu vực nuôi và 42% còn lại từ khai thác.

Tuy nhiên, cả sản lượng thủy sản nuôi và khai thác cũng chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu khi chiếm đến 70% sản lượng, tức chỉ 30% phục vụ cho tiêu dùng nội địa. “Việt Nam sử dụng 30% cho tiêu dụng nội địa, trong khi 90% thủy sản Nhật Bản làm ra đều được tiêu dùng nội địa”, ông Đức so sánh để thấy tiêu thụ thủy sản nội địa của Việt Nam còn hạn chế.

Với lượng thủy sản được sử dụng ở thị trường nội địa tương đương khoảng 2,85 triệu tấn, có đến 63,3% là thủy sản tươi sống và phần còn lại là các sản phẩm thủy sản đã qua sơ chế, chế biến- con số phản ánh đúng thực tế đang diễn ra hiện nay.

Bà Nguyễn Thị Thu Trinh, Phó Tổng giám đốc kinh doanh và thương mại điện tử Công ty cổ phần Sài Gòn Food, cho biết đơn vị này có hai nhóm mặt hàng thủy sản chính, đó là nhóm nhiệt độ thường (thủy sản tươi, khô các loại) và nhóm hàng đông lạnh.

Theo bà, với mặt hàng tươi, cá khô khi phân phối cho hệ thống các nhà bán lẻ có thể nhận đơn hàng trong cả nước với hệ thống logistics gọn nhẹ, phù hợp giao hàng bằng nhiều loại xe khác nhau.

Tuy nhiên, với thủy hải sản đông lạnh một là giao qua trung tâm phân phối của nhà bán lẻ hoặc nhà cung cấp phải giao từng sọt hàng đến hàng trăm điểm bán lẻ khác nhau của bên mua, khiến chi phí logistics với hàng đông lạnh rất cao.

Để giai quyết bài toán nêu trên doanh nghiệp phải bán giá cao hơn, nhưng điều này sẽ khó tiêu thụ vì người tiêu dùng không chấp nhận. “Hiện nay, thị trường bán thế nào mình phải bán giá cạnh tranh mới đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng”, bà Trinh nói và thừa nhận, lợi nhuận hàng đông lạnh thấp hơn đáng kể so với hàng nhiệt độ thường.

Sẽ có chiến lược bán thủy sản thị trường nội địa. Ảnh: Trung Chánh

Sẽ có chiến lược bán thủy sản thị trường nội địa. Ảnh: Trung Chánh

Sẽ có chiến lược bán thủy sản nội địa

Trước những khó khăn cũng như thực tế bán thủy sản thị trường nội địa còn nhiều hạn chế, tại một hội nghị ngành thủy sản diễn ra mới đây, ông Huỳnh Minh Tường, Phó chủ tịch VASEP, nhấn mạnh phát triển thị trường nội địa cho thủy sản là trụ cột song song thị trường xuất khẩu. “Đó là giải pháp giảm sự phụ thuộc thị trường xuất khẩu, nâng cao nhu cầu người tiêu dùng”, ông nhấn mạnh và cho biết, giai đoạn 2025-2030, khai thác thị trường nội địa sẽ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị này nhằm duy trì hoạt động cung cấp hàng cho thị trường nội địa.

Ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng thư ký VASEP, cho biết việc thay đổi thói quen ẩm thực là điều rất khó, cần có chiến lược “mưa dầm thấm lâu”. “Phải bắt đầu từ sản phẩm, rồi mới đến tuyên truyền”, ông nói và cho biết, đơn vị này sẽ thực hiện nghiêm túc về một chiến lược bài bản để khai thác thị trường nội địa.

Ông Nguyễn Anh Đức, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, kiến nghị đầu tiên phải tổng thể lại kế hoạch phát triển ngành thủy sản, bởi sau sáp nhập gần như tất cả địa phương đều có biển, sông để nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản nên phải tính lại.

Đặc biệt, các đơn vị có liên quan cần có chiến lược, chính sách khuyến khích người tiêu dùng Việt Nam sử dụng thủy hải sản thay thế những sản phẩm khác, bởi như đã nêu tỷ lệ tiêu dùng thủy sản so với tổng tiêu dùng thực phẩm hàng ngày của Việt Nam còn thấp (20,1%).

Cần xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam liên quan thủy hải sản để hình thành sản phẩm tốt của Việt Nam trong quá trình vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu cũng như cho thị trường nội địa. “Khi đó, bản thân người Việt sẽ được sử dụng sản phẩm tốt nhất của Việt Nam, chứ không phải xuất khẩu thì tốt, nhưng bán trong nước thì sản phẩm xấu hơn”, ông Đức cho biết.

Ngoài ra, cần hình thành một chiến lược để phát triển thủy hải sản chế biến, bởi tỷ lệ sử dụng sản phẩm chế biến vẫn còn thấp. “Chúng ta phải tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến lên mới phát huy được tối ưu của ngành. Bởi, chế biến thủy hải sản là đặc điểm rất hay của Việt Nam”, ông Đức gợi ý.

Việc điều chỉnh sản phẩm để phù hợp người tiêu dùng trong nước cũng cần được tính đến, bởi khẩu vị, thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam sẽ khác khách hàng châu Âu, Mỹ. Chẳng hạn, với cá tra, khách hàng Mỹ ăn sản phẩm phi lê, trong khi người tiêu dùng trong nước chuộng nguyên con hoặc cắt khúc đã qua sơ chế…

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/ban-ca-tom-tung-hoanh-san-khach-nhung-e-san-nha/