Bản hùng ca bất diệt về tinh thần quật cường và lòng yêu nước nồng nàn
Nhân dân Nam Kỳ xứng đáng là lá cờ đầu trong phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Truyền thống yêu nước, bất khuất của người dân vùng đất phương Nam đã được hun đúc qua bao thế hệ, từ những ngày đầu chống giặc ngoại xâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Khi ánh sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam soi rọi đến, ngọn lửa cách mạng trong lòng nhân dân Nam Kỳ càng bùng lên mạnh mẽ. Người dân đã biến đau thương thành hành động, biến ý chí thành sức mạnh, làm nên những phong trào đấu tranh oanh liệt, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 - bản hùng ca bất diệt của tinh thần quật cường, của ý chí 'thà chết chứ không chịu mất nước, thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ'.

Bản đồ các mũi tiến quân của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tại Hóc Môn. Ảnh: Tư liệu
Nam Kỳ là tên gọi được Hoàng đế Minh Mạng nhà Nguyễn đặt cho 6 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vào năm 1832. Tính đến năm 1944, dưới thời chế độ thực dân Pháp, Nam Kỳ gồm 21 tỉnh, bao gồm: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Tân Bình, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Nam Kỳ có Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định, có Nguyễn Trung Trực với câu nói nổi tiếng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.
Sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Ngô Gia Tự được cử làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Ngô Gia Tự, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ đã phát triển mạnh mẽ.
Nhân dịp Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930, hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng, khoảng 1.000 nông dân quận Đức Hòa (Chợ Lớn) đã biểu tình đến quận lỵ đòi giảm thuế, bỏ sưu. Bọn thực dân Pháp đàn áp dã man làm 9 người chết, 50 người khác bị thương. Nhưng đoàn biểu tình vẫn không lùi bước, buộc địch phải nhượng bộ, chấp nhận bản yêu sách, giảm thuế, giảm sưu.
Trong tháng 5/1930, theo thống kê, Nam Kỳ có 12 cuộc đấu tranh nổ ra. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 6 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939, tại Bà Ðiểm (Hóc Môn - Gia Ðịnh), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, cùng các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn đã ra nghị quyết lịch sử, khẳng định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng dân tộc”.
Ngày 22/6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Ngày 23/9/1940, phát xít Nhật vượt qua biên giới Việt - Trung vào nước ta. Sau khi vào Đông Dương, Nhật liên tục ép Pháp nhượng bộ, ký kết các hiệp ước có lợi cho Nhật trên tất cả các mặt: Kinh tế, quân sự, văn hóa, tư tưởng... Từ đó, Nhật từng bước chi phối Đông Dương. Dân ta do đó lâm vào tình thế “một cổ đôi tròng”, đời sống hết sức cơ cực.
Nhân thời điểm tinh thần phản chiến của nhân dân đang lên cao, ngày 21/11/1940, Xứ ủy Nam Kỳ đã ra thông báo cho các cấp bộ Đảng nhất loạt phát động nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ, ngày 22/11/1940. Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ở 20/21 tỉnh, thành phố thuộc Nam Kỳ, kéo dài từ đêm 22, rạng sáng 23/11 đến ngày 31/12/1940, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông của địch bị phá hủy. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã; chính quyền cách mạng được thành lập, tịch thu ruộng đất của địa chủ và phản động chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng... Trong bão táp cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được giương cao.
Thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man cuộc khởi nghĩa. Rất nhiều đồng bào, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đã bị địch bắt, tra tấn, tù đày, giết chóc vô cùng tàn bạo. Theo các báo cáo của chính quyền thuộc địa, tính đến hết ngày 31/1/1941, Pháp đã bắt 7.048 người. Hàng ngàn người bị xử tử, bị đày ra Côn Đảo, đưa đi các trại tập trung Tà Lài, Bà Rá. Lực lượng nghĩa quân còn lại rút về Truông Mít (Thủ Dầu Một), Bình Hòa, Bình Thành, vùng Đồng Tháp và rừng U Minh để củng cố lực lượng.
Sáng sớm ngày 28/8/1941, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các nhà lãnh đạo của Đảng và khởi nghĩa Nam Kỳ như đồng chí Hà Huy Tập (Tổng Bí thư của Đảng từ năm 1936-1938), Phan Đăng Lưu (Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng), Võ Văn Tần (Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Nguyễn Thị Minh Khai (Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn), Nguyễn Hữu Tiến (Ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ phụ trách công tác tuyên huấn)... hiên ngang bước ra pháp trường, nêu cao khí tiết của người cộng sản trước nòng súng của bọn thực dân.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ do chưa đủ điều kiện khách quan, chủ quan chín muồi nên chưa thành công, nhưng đã để lại truyền thống bất khuất, kiên cường của lòng yêu nước quả cảm vô song.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã xóa bỏ việc phân chia Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ của Pháp, tuyên bố nước Việt Nam là một quốc gia thống nhất. Từ đó, cái tên Nam Bộ ra đời thay cho danh xưng Nam Kỳ.
Ngày 14/4/1948, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163/SL tặng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ, nhằm tôn vinh ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đối với lịch sử cách mạng Việt Nam.
85 năm đã trôi qua, nhưng âm hưởng của khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn vang vọng trong lòng mỗi người Việt Nam yêu nước. Những tấm gương kiên trung, bất khuất của các chiến sĩ cách mạng năm xưa mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Phát huy truyền thống đó, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Nam Bộ tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, hăng hái thi đua lao động, học tập, chiến đấu, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.











