Bản quyền - 'tấm khiên' bảo vệ sáng tạo
Công nghiệp văn hóa đang được xác định là nguồn lực mềm chiến lược, có khả năng đóng góp tới 9% GDP quốc gia vào năm 2045. Tuy nhiên, sự phát triển bền vững của ngành phụ thuộc vào khả năng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt trong kỷ nguyên số.
Bảo hộ bản quyền yếu kém sẽ triệt tiêu động lực sáng tạo
Ngành công nghiệp văn hóa đang bùng nổ trên phạm vi toàn cầu, đồng thời mở ra hướng đi đầy triển vọng để Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ kinh tế sáng tạo thế giới. Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 đặt ra mục tiêu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10%/năm, đóng góp 7% GDP; đến năm 2045, phấn đấu doanh thu đóng góp 9% GDP, sản phẩm công nghiệp văn hóa số phải chiếm hơn 80% tổng quy mô ngành và kim ngạch xuất khẩu tăng 9%/năm.
Theo các chuyên gia, để công nghiệp văn hóa thực sự phát triển mạnh mẽ, cần có hành lang pháp lý rõ ràng, nhân lực, cơ sở hạ tầng tốt, và đặc biệt là sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - yếu tố nền tảng để nuôi dưỡng sáng tạo. Theo chiến lược, các ngành trọng điểm được ưu tiên phát triển gồm: Điện ảnh, Phần mềm và Trò chơi giải trí, Thiết kế sáng tạo, Nghệ thuật biểu diễn, Quảng cáo và Xuất bản. Trong các ngành này, quyền tác giả và quyền liên quan là tài sản trí tuệ cơ bản, quyết định khả năng thương mại hóa, thu hút đầu tư và xuất khẩu.

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là yếu tố nền tảng để nuôi dưỡng sáng tạo. Ảnh: BVHTTDL
Thực tế, chuyển đổi số mở ra cơ hội chiến lược để đưa văn hóa Việt Nam vươn tầm quốc tế, từ triển lãm ảo, bảo tàng trực tuyến, phim Việt phát hành toàn cầu, các trò chơi chinh phục công chúng quốc tế… Tuy nhiên, vi phạm bản quyền là rào cản lớn nhất đối với sự phát triển bền vững của công nghiệp văn hóa tại Việt Nam. Thiệt hại kinh tế do vi phạm bản quyền tập trung ở các ngành có tính số hóa cao như âm nhạc, điện ảnh và phần mềm. Đây không chỉ là tổn thất đối với lợi ích của tác giả và chủ sở hữu quyền, mà còn trực tiếp phá vỡ khả năng tái đầu tư và sản xuất nội dung mới, làm suy giảm năng lực cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm văn hóa Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, sự thất thoát này cản trở việc đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô của công nghiệp văn hóa.
Để có được 80% sản phẩm số vào năm 2045, nội dung số như phần mềm, trò chơi, phim trực tuyến… phải có khả năng kiếm tiền và được bảo vệ khỏi hành vi sao chép tức thì. Nếu cơ chế bảo hộ bản quyền yếu kém, các sản phẩm số sẽ nhanh chóng bị coi là hàng hóa miễn phí hoặc giá trị thấp, làm triệt tiêu động lực đầu tư vào sản xuất nội dung chất lượng.
Tạo môi trường sáng tạo công bằng
Bảo vệ bản quyền không chỉ là yêu cầu pháp lý, mà còn là động lực then chốt để công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trong nền kinh tế sáng tạo toàn cầu. Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trần Hoàng khẳng định: thực thi quyền sở hữu trí tuệ không dừng lại ở việc xử lý vi phạm, mà quan trọng hơn là tạo ra môi trường sáng tạo công bằng - nơi mọi ý tưởng, tác phẩm được tôn trọng và trả công xứng đáng…
Để đạt được các mục tiêu, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp, trong đó đặc biệt chú trọng vấn đề bản quyền. Cụ thể, tăng cường truyền thông về quyền sở hữu trí tuệ để nâng cao nhận thức trong quá trình khai thác và sử dụng các sản phẩm sáng tạo; hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Bản quyền tác giả để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thực thi, khai thác và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
Các giải pháp tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và thực thi các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ nhằm tăng cường bảo hộ sáng tạo trí tuệ đối với các sản phẩm công nghiệp văn hóa, giải trí; tư vấn, hỗ trợ chuyên môn về sở hữu trí tuệ cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong quá trình tham gia hoạt động sáng tạo liên quan.
Bên cạnh đó, tập trung hỗ trợ những sáng tạo khai thác các giá trị truyền thống, bản sắc của các dân tộc Việt Nam; xây dựng cơ chế phối hợp, khai thác hiệu quả tài sản sở hữu trí tuệ giữa các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân với chủ sở hữu quyền để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí. Đồng thời, xây dựng hệ thống phần mềm phát hiện chống vi phạm bản quyền trên không gian mạng và trong môi trường kỹ thuật số để hỗ trợ hoạt động sáng tạo trong công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí...
ThS. Kiều Công Thược, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam cho rằng, ở nơi những ý tưởng, câu chuyện, âm nhạc, phần mềm hay trò chơi được tạo ra bằng trí tuệ và công sức của con người, bản quyền trở thành “tấm khiên” bảo vệ giá trị lao động, đồng thời là “đòn bẩy” giúp các sản phẩm văn hóa bước vào thị trường toàn cầu một cách minh bạch và bền vững...
Ở tầm quốc gia, văn hóa bản quyền chính là động lực để chuyển đổi từ tiêu dùng nội dung giá rẻ sang phát triển nội dung giá trị cao, từ sao chép sang sáng tạo, từ thị trường lậu sang thị trường tri thức. Và chỉ khi văn hóa bản quyền trở thành thói quen xã hội, công nghiệp văn hóa mới có thể tăng trưởng bền vững và khẳng định vị thế trong kỷ nguyên kinh tế sáng tạo.
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/ban-quyen-tam-khien-bao-ve-sang-tao-10399722.html












