Bản Tuyên ngôn độc lập - Lời nước non

Cái trong trẻo, cao xanh, trong vắt của mây trời, cùng sắc nắng ươm vàng cảnh vật của mùa thu khiến lòng người khoan khoái, bâng khuâng... Với người dân nước Việt, những ngày trời thu tháng Tám còn mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhắc nhớ về sự kiện Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh: Tư liệu

Năm tháng ấy có “Ông Cụ” ngồi khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập

Trên căn gác hai ở ngôi nhà 48 Hàng Ngang, “căn buồng nhỏ thiếu ánh sáng của ngôi nhà sâu thẳm, nằm giữa một trong ba mươi sáu phố phường cổ kính của Hà Nội”, trong những ngày mùa thu lịch sử năm 1945, có “Ông Cụ” (biệt hiệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc bấy giờ) người gầy gò, chòm râu dài và thưa, chỉ có đôi mắt sáng ngời, tinh anh và vầng trán cao rộng đang dốc sức dốc lòng, mang hết tâm can, trí tuệ khởi thảo những con chữ đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập. Ấy là Chủ tịch Hồ Chí Minh - người Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, vị “thuyền trưởng” tài ba, đáng kính đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến thành công.

Bản Tuyên ngôn Độc lập bắt đầu được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo sau khi diễn ra cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang diễn ra vào ngày 26/8/1945. Trước đó, ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về tới Hà Nội. Tại cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương về các vấn đề đối nội và đối ngoại trong tình hình mới, về việc công bố sớm danh sách các thành viên Chính phủ... Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: “Phải mở rộng hơn nữa thành phần Chính phủ, bao gồm những đại biểu các tầng lớp Nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ không Đảng phái; phải thảo bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt Nhân dân; ngày ra mắt của Chính phủ cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa”.

Trong thời gian gấp gáp, dẫu còn mệt do đi đường xa và mới bình phục sau trận ốm nặng, Người vẫn miệt mài làm việc, có lúc Người viết tay, có lúc Người đánh máy. Trong thời gian khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trao đổi, lắng nghe ý kiến góp ý của một số đồng chí thân cận, từng chút một cân nhắc, điều chỉnh, bổ sung một số điểm vào bản thảo.

Ngày 31/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho mời các Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời tới Bắc Bộ phủ để thông qua nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập. Khi chiếc đồng hồ của Bắc Bộ phủ gõ tám tiếng trịnh trọng vừa dứt, cánh cửa phòng mở ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh bước tới và bắt đầu triển khai ngay công việc: “Thời gian gấp rút, tôi đề nghị đầu tháng 9, Chính phủ ta ra mắt quốc dân, và đọc Tuyên ngôn Độc lập. Tôi đã chuẩn bị. Xin đưa bản thảo để các vị xét duyệt. Đề nghị duyệt kỹ. Vì ta sẽ đọc không phải chỉ để đồng bào cả nước ta nghe, mà còn cho cả Chính phủ Pháp và Nhân dân Pháp, cho cả các nước đồng minh nghe”.

Bản Tuyên ngôn Độc lập đã được khởi thảo và hoàn chỉnh theo cách đặc biệt như thế, để chuẩn bị cho một sự kiện mang tính bước ngoặt, để được cất vang trong giờ phút xúc động và thiêng liêng nhất của lịch sử dân tộc. “Chỉ mới cách đó hơn một tuần, Hà Nội còn là một thành phố bảo hộ, mật thám như rươi, thoáng thấy màu cờ đỏ là cả bộ máy cai trị của kẻ thù lồng lên như thú dữ. Thế mà giờ đây, cờ đỏ phấp phới bay khắp phố phường. Đêm ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang ngồi giữa lòng Hà Nội soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập, mở đầu một kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ nguyên Độc lập, tự do. Thật là kỳ diệu. Cách mạng là một sự kỳ diệu. Và chính Người, từ Nguyễn Ái Quốc đến Hồ Chí Minh, đã cùng với toàn dân làm nên điều kỳ diệu đó” – Những hồi tưởng của đồng chí Vũ Kỳ gợi lên bao xúc cảm.

Bản khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Tổng Bí thư Trường Chinh, người tham gia cuộc mít tinh tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 đã kể lại giờ phút trọng đại ấy bằng tất cả những thổn thức từ con tim, gom hết những rạo rực, hân hoan, vui sướng khôn cùng: “Cả Hà Nội là một rừng cờ sao, hoa. Một cuộc mít tinh khổng lồ chưa từng thấy trong lịch sử thủ đô. Gần 1 triệu đồng bào đủ các tầng lớp, đủ các lứa tuổi, đủ các giới từ các ngả đổ về vườn hoa Ba Đình dự ngày hội lớn của dân tộc. Hơn 20 triệu đồng bào toàn quốc hân hoan hướng về ngày lễ. Bầu bạn thế giới gần xa vui mừng chờ đón. Chế độ mới đã khai sinh, cuộc đời đã đổi thay, kỷ nguyên mới của dân tộc đã mở ra, tương lai của dân tộc, của mỗi người Việt Nam đã nắm chắc trong tay”.

Trước sự chứng kiến của đông đảo quốc dân, trong khí thế tưng bừng, hồ hởi, phấn khởi, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. “Hỡi đồng bào cả nước” – Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trầm ấm, vang vang trên lễ đài. Hai chữ “đồng bào” nghe sao thật gần gũi, thân thương. Những người dân nước Việt, những “con Lạc cháu Hồng” vốn có chung nguồn cội, sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ, nay tựu về đây trong một niềm vui chung, khí thế chung.

Sau câu nói như lời chào gửi tới quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng việc viện dẫn những quan điểm, tư tưởng về quyền tự do, bình đẳng con người trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Cái tinh tế, khéo léo và sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã dùng chính những quan điểm, tư tưởng của kẻ thù để lập luận, để làm rõ bản chất “hai mặt”, tráo trở của chủ nghĩa thực dân. Những kẻ luôn tự cho mình là “mẫu quốc”, luôn rao giảng về quyền tự do, dân chủ và “khai hóa văn minh” lại là kẻ xâm lược, ngang nhiên cướp bóc của cải, chà đạp nhân phẩm, đẩy cuộc sống của biết bao con người vào cảnh khốn cùng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến luận điểm quan trọng: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Với lời văn khúc triết, mạch lạc mà đanh thép, lập luận chặt chẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án, tố cáo những tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho đất nước ta, đồng bào ta. Những lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho thấy hai chiều kích đối lập giữa ta và địch. Khi thực dân Pháp “tuyệt đối không cho Nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “thi hành những luật pháp dã man”, “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”, “thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”,... Thì ở phía bên này của lương tri, lòng nhân ái, “biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật”, “đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo”, giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tài sản, tính mạng cho họ.

Chính chủ nghĩa thực dân bạo tàn đã buộc một dân tộc vốn yêu chuộng hòa bình, buộc những con người vốn chân chất, hiền lành, đầy lòng bao dung, vị tha phải đứng lên cầm súng chiến đấu. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”. Tuyên ngôn Độc lập khép lại với sự khẳng định vững vàng, tuyên bố dõng dạc trước quốc dân đồng bào, trước toàn thế giới về quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một con người đã trở thành hiện thân của quá trình gặp gỡ lịch sử giữa một dân tộc, một thời đại” thì Tuyên ngôn Độc lập với hơn 1.000 từ đã bao hàm trong đó cả vấn đề của con người, của quốc gia, dân tộc đến những luận điểm mang tính thời đại. Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực, một văn kiện có ý nghĩa thời đại sâu sắc, tính lý luận cao, được đúc kết từ thực tiễn đầy biến động và cho đến nay nó vẫn vẹn nguyên giá trị. Tiếng Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập giữa mùa thu Ba Đình tỏa nắng là những thanh âm đẹp đẽ nhất trong bản anh hùng ca của dân tộc. Từng câu, từng chữ trong Tuyên ngôn Độc lập là lời của non nước nghìn thu, là lời thề thủy chung, son sắt với con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, với khát vọng Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Bài viết sử dụng tư liệu trong cuốn sách “Bác Hồ viết Tuyên ngôn Độc lập” (Kiều Mai Sơn, NXB Kim Đồng, 2025).

Hương Thảo

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/ban-tuyen-ngon-doc-lap-loi-nuoc-non-258675.htm