Bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ trong phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay
Trong xu thế xây dựng và phát triển đất nước thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang kiên định theo định hướng phát triển bền vững. Với vị trí là đầu tàu kinh tế của cả nước, vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện thắng lợi định hướng phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng về vấn đề này ở vùng Đông Nam Bộ, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm bảo đảm và phát huy công bằng, dân chủ trong phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay.
Bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ trong phát triển nhanh và bền vững giai đoạn hiện nay
Bản chất và mục đích của phát triển bền vững đất nước theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là nhằm hướng tới “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong đó, thực chất của vấn đề bảo đảm công bằng xã hội trong xây dựng và phát triển bền vững đất nước là giải quyết hài hòa các lợi ích kinh tế với các yêu cầu về bảo đảm an sinh, an toàn xã hội; mang lại cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân.
Vấn đề bảo đảm công bằng xã hội đòi hỏi nhận thức và giải quyết đúng hai mối quan hệ cơ bản là: cống hiến - hưởng thụ và nghĩa vụ - quyền lợi. Tuy nhiên, công bằng xã hội không đồng nghĩa với việc cào bằng, thực hiện chủ nghĩa bình quân mà không tính đến chất lượng, hiệu quả lao động và sự đóng góp của mỗi cá nhân cho sự phát triển cộng đồng.
Theo đó có thể hiểu, công bằng xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua phân phối nguồn lực, của cải xã hội; công bằng trong giáo dục, trong y tế theo nguyên tắc mọi người đều có quyền được học tập, học tập suốt đời; được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mà một số nhóm chủ thể yếu thế trong xã hội như người khuyết tật, người có thu nhập thấp, người dân tộc thiểu số… sẽ có cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã hội hạn chế hơn so với các chủ thể khác.
Do đó, bảo đảm công bằng xã hội là việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội được tiếp cận công bằng với các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển, các dịch vụ cơ bản về việc làm, điện nước sạch, nhà ở, giáo dục, y tế, thông tin…
Mặt khác, với vị thế là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã và đang đứng trước những cơ hội lớn trong giao lưu, hội nhập, phát triển kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, các chính sách, pháp luật được ban hành nếu không phù hợp, thiếu khả thi có thể trở thành nguy cơ xâm phạm đến công bằng xã hội và quyền tự do dân chủ của các chủ thể.
Do đó, vấn đề bảo đảm công bằng xã hội trong phát triển nhanh và bền vững không chỉ được hiểu là bảo đảm cơ hội được tiếp cận các quyền và lợi ích giữa các nhóm chủ thể, mà còn bảo đảm việc thụ hưởng quyền và lợi ích của chủ thể này không xâm phạm tới việc thụ hưởng quyền và lợi ích của chủ thể khác.
Vấn đề phát huy dân chủ trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay được hiểu là tôn trọng và bảo đảm vị trí “là chủ” và vai trò “làm chủ” của Nhân dân trong đời sống xã hội. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền làm chủ của Nhân dân.
Với vị trí là người chủ của đất nước, Nhân dân có quyền và có nghĩa vụ tham gia vào các công việc của đời sống chính trị xã hội, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm phát triển bền vững.
Thực trạng bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ trong phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay
Những thành tựu trong công tác bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ trong phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ trong phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ được Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều thay đổi, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; đảm bảo quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”1.
Đồng thời, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng đã khẳng định “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số... Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”.
Vùng Đông Nam Bộ được Đảng và Nhà nước xác định là vùng có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Đây là vùng kinh tế trọng điểm bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh trực thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, hiện đang đóng góp khoảng 45% GDP và khoảng 50% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu và ngân sách cả nước2.
Để phát huy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng, ngày 29/8/2005, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 53-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020.
Tiếp đó, ngày 2/8/2012, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Kết luận số 27-KL/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và thời kỳ 2011-2020 với mục tiêu: “Huy động cao nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của Vùng để phát triển nhanh, ổn định và bền vững; đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; các mặt giáo dục - đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế vào loại hàng đầu cả nước; bảo đảm ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh vững chắc; góp phần tích cực vào sự phát triển chung của khu vực phía Nam và cả nước; là địa bàn cầu nối để hội nhập, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực”.
Để tăng cường tiềm năng và nội lực của vùng Đông Nam Bộ, ngày 7/10/2022 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ hai, kinh tế vùng Đông Nam Bộ đã và đang phát triển nhanh, đồng bộ, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển vùng kinh tế trọng điểm.
Với vị trí là một trong những vùng kinh tế năng động, sáng tạo, đi đầu trong đổi mới, phát triển đất nước, trong những năm qua, nhận thức đúng vị trí, vai trò, tiềm năng của mình, các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, không ngừng phát huy lợi thế nhiều mặt, tập trung thúc đẩy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Với diện tích chiếm 9% và dân số chiếm 20% nhưng vùng Đông Nam Bộ đã đóng góp hơn 30% GDP, khoảng 45% tổng thu ngân sách nhà nước và hơn 32% kim ngạch xuất khẩu cả nước3.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, để phát triển nhanh, bền vững tạo bước đột phá, lan tỏa trong phát triển kinh tế, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045 xác định, đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, sinh thái, bền vững, áp dụng quy trình sản xuất an toàn; sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường; sản xuất theo chuỗi từ khâu nuôi trồng đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Với những điều kiện thuận lợi về tự nhiên, đất đai, Đông Nam Bộ là một trong hai vùng (cùng với Đồng bằng sông Hồng) phát triển cây ăn quả lớn nhất cả nước và là khu vực chăn nuôi trọng điểm đáp ứng các yêu cầu về chăn nuôi an toàn, phòng chống dịch bệnh. Ngày 27/10/2022, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chính thức phê duyệt Quyết định số 4085/QĐ-BNN-TT về việc phê duyệt Đề án phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030. Đây cũng là những loại trái cây có nhiều thế mạnh phát triển tại vùng Đông Nam Bộ như: xoài (định hướng phát triển Đồng Nai, Tây Ninh); chôm chôm, chuối (Đồng Nai); nhãn (Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu); mít (Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh); sầu riêng (Đồng Nai, Bình Phước)…
Trong lĩnh vực công nghiệp, Đông Nam Bộ được biết tới là vùng có trình độ phát triển cao hơn so với các địa phương khác trên địa bàn cả nước với mạng lưới dày đặc các khu công nghiệp tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, qua đó góp phần thúc đẩy tỷ lệ đô thị hóa ngày càng tăng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn khoảng 1,4 - 1,6 lần tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước.
Bên cạnh đó, vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ còn có hạt nhân là Thành phố Hồ Chí Minh - nơi tập trung các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, trung tâm y tế với nguồn nhân lực dồi dào, trình độ chuyên môn cao, là trung tâm đầu mối dịch vụ, thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế, qua đó góp phần thu hút và đẩy mạnh đầu tư trong khu vực và thế giới.
Trong lĩnh vực dịch vụ, để đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế, vùng Đông Nam Bộ đã chú trọng đẩy mạnh liên kết vùng thông qua việc hình thành mạng lưới đô thị vệ tinh trong một không gian mở thông thoáng, liên kết với nhau thông qua các tuyến trục và vành đai đang được xây dựng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thương nghiệp với khu vực và thế giới, vùng Đông Nam Bộ đã nỗ lực trở thành trung tâm hội nhập quốc tế lớn nhất cả nước với cảng biển trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải (đã định hình), sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và Cảng hàng không quốc tế Long Thành (sẽ được xây dựng).
Với những điều kiện thuận lợi đó, Đông Nam Bộ trở thành vùng kinh tế năng động, dẫn đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Tính đến nay, vùng chiếm khoảng 60% số dự án và gần 50% vốn FDI của cả nước với kim ngạch xuất khẩu của vùng chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Thứ ba, vùng Đông Nam Bộ chú trọng bảo đảm công bằng, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Không chỉ phát triển mạnh mẽ về kinh tế, Đông Nam Bộ còn là vùng có sự phát triển vượt bậc trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư địa phương. Thực hiện theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chính quyền các địa phương vùng Đông Nam Bộ đã chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của Nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm…
Người dân được bảo đảm tiếp cận đầy đủ các dịch vụ an sinh xã hội thiết yếu, được tạo điều kiện phát huy năng lực và giá trị của bản thân, được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo Hiến pháp và pháp luật.
Có thể thấy, tại Đông Nam Bộ, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã và đang đem lại diện mạo đô thị ngày càng hiện đại; tỉ lệ các xã, phường đạt chuẩn nông thôn mới đứng thứ hai trong các vùng của cả nước4. Với trình độ phát triển kinh tế vượt bậc, giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2021, Đông Nam Bộ luôn là vùng có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước với 4,6% năm 2006 và 0,2% năm 2021, qua đó chứng tỏ chất lượng cuộc sống và các điều kiện về an sinh xã hội cho người dân địa phương ngày càng được bảo đảm tốt hơn.
Mặt khác, đây cũng là vùng hạt nhân trong đào tạo lao động có tay nghề trình độ cao, được giáo dục bài bản, góp phần thu hút đầu tư trong nước và quốc tế. Với hạt nhân là Thành phố Hồ Chí Minh, các lĩnh vực như văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế tại vùng Đông Nam Bộ đã và đang phát triển đứng đầu cả nước. Tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông và ngập úng cơ bản được giải quyết. Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc...
Mặc dù được đánh giá là một trong những vùng trọng điểm để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với những điều kiện thuận lợi đặc thù; tuy nhiên, để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, vùng Đông Nam Bộ đã và đang phải đối mặt với không ít những thách thức, khó khăn.
Cụ thể, giai đoạn gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng Đông Nam Bộ đang dần chững lại khi tốc độ tăng trưởng ở Đông Nam Bộ từng đạt trung bình trên 10% rồi giảm rõ rệt trong thập niên gần đây với mức trung bình 7-8% mỗi năm. Đặc biệt, tăng trưởng GRDP giảm mạnh trong giai đoạn 2020-2021 do dịch Covid-19. Sức hút FDI cũng suy giảm khi quy mô trung bình mỗi dự án của vùng chỉ khoảng 10 triệu USD, thấp hơn mức bình quân cả nước là 12,42 triệu USD5.
Theo các chuyên gia kinh tế, vấn đề này xuất phát từ nguyên nhân đầu tiên là thiếu trầm trọng nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng với tỷ lệ lao động có kỹ năng chỉ xấp xỉ trung bình cả nước, không đủ để phục hồi và nâng cao chất lượng nền kinh tế. Bên cạnh đó, vấn đề cân đối giữa thu chi ngân sách, tình trạng quy hoạch vùng, xây dựng mối liên kết vùng phát triển kinh tế giữa các địa phương còn kém hiệu quả, vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu có xu hướng diễn biến trầm trọng hơn… là những thách thức không nhỏ đối với chính quyền các địa phương trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Một số giải pháp nhằm bảo đảm và nâng cao công bằng, phát huy dân chủ trong phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, cần đảm bảo thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà nước về phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ thống nhất và thực sự hiệu quả.
Phù hợp với tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về đẩy mạnh phát triển nhanh và bền vững, Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nêu rõ: “Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã rất rõ. Các bộ, ngành, địa phương phải căn cứ chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện; đồng thời kịp thời phát hiện những vướng mắc, xác định chủ thể để giải quyết; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không cầu toàn, không nóng vội; mạnh dạn đề xuất cơ chế chính sách căn cứ thực tiễn; phát huy tính chủ động của các địa phương, song huy động sức mạnh tổng hợp của cả vùng”.
Đối với vùng Đông Nam Bộ, để phát huy tiềm năng của vùng kinh tế trọng điểm, cần tiếp tục quán triệt và tổ chức thực thi có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ theo hướng đẩy mạnh liên kết vùng, chú trọng phát huy tiềm năng và thế mạnh của địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội.
Nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển nhanh và bền vững nói chung, phát triển vùng Đông Nam Bộ nói riêng, Nhà nước cần xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi nhằm quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ hợp lý theo hướng tận dụng tối đa tiềm năng, thế mạnh của Vùng.
Thứ hai, cần nghiên cứu phát huy đầy đủ, hiệu quả các tiềm năng của vùng Đông Nam Bộ để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Đông Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với những tiềm năng lớn để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân địa phương nói riêng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội của cả nước nói chung.Tuy nhiên, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan, kinh tế - xã hội của vùng Đông Nam Bộ trong thời gian qua đang có xu hướng chững lại, mức độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vượt trội của khu vực này.
Do đó, tại Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định vùng Đông Nam Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chú trọng phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh kinh tế tuần hoàn, mục tiêu và chương trình phát triển vùng Đông Nam Bộ cần phải phù hợp với các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trên cơ sở bảo đảm thống nhất với quy hoạch quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang có xu hướng diễn biến phức tạp như hiện nay.
Bên cạnh đó, cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch và quản lý phát triển vùng. Tăng cường đổi mới liên kết vùng trên cơ sở xây dựng cơ chế liên kết và điều phối vùng hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng khác và các nước tiểu vùng sông Mê Công, ASEAN và thế giới.
Thứ ba, cần bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội trong xây dựng và phát triển nhanh, bền vững vùng Đông Nam Bộ.
Có thể thấy, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao, từ một hình thái kinh tế - xã hội này đến một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, góp phần đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người. Đó cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã khẳng định trong các mục tiêu, chiến lược của mình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già không lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”6.
Nhận thức sâu sắc về vấn đề bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, trong các kì đại hội, Đảng đều xác định con người vừa là trung tâm chiến lược, vừa là mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”7. Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”8.
Để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội trong tiến trình phấn đấu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc phân phối công bằng phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường trên cơ sở bảo đảm sự can thiệp và định hướng có hiệu quả của Nhà nước.
Đây là nguyên tắc đã được xác định và hoàn thiện thông qua các kì đại hội của Đảng, trong đó khẳng định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”9. Việc thực hiện theo nguyên tắc này sẽ góp phần kích thích các thành phần kinh tế chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Để bảo đảm tiến bộ xã hội, Đảng và Nhà nước cần quan tâm thực hiện tốt các chính sách về an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước nói chung và vùng Đông Nam Bộ nói riêng theo hướng nhanh và bền vững. Đảng ta đã khẳng định: “Hệ thống an sinh xã hội… có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng; Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội”10; qua đó góp phần giải quyết các vấn đề về việc làm, xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo, y tế… để nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư, đặc biệt là nhóm người có thu nhập thấp và nhóm lao động yếu thế.
Thứ tư, cần đẩy mạnh và phát huy hiệu quả quyền làm chủ của Nhân dân trong phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ.
Bảo đảm và phát huy hiệu quả quyền làm chủ của Nhân dân trong phát triển nhanh và bền vững vùng Đông Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung, trước hết cần bảo đảm dân chủ được thực hiện rộng rãi, minh bạch, hiệu quả trong Đảng.
Cụ thể, cần xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng như cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhân dân đối với Đảng; thể chế hóa quyền và trách nhiệm của Đảng trong xã hội; thể chế hóa quan hệ giữa Đảng và các thiết chế chính trị - xã hội. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa việc dân chủ hóa trong công tác cán bộ; cải tiến công tác bầu cử; xây dựng và hoàn thiện cơ chế Nhân dân giám sát, kiểm tra Đảng, kiểm tra Nhà nước; nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ bao gồm dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền và nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại địa phương trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở. Có thể thấy, nội dung cốt lõi của vấn đề thực hiện dân chủ đều hướng tới mục tiêu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Để Dân có thể biết, bàn, làm và kiểm tra thì người dân trước hết phải có trình độ nhận thức, có ý thức và sự giác ngộ chính trị để hiểu được những nội dung, yêu cầu của vấn đề dân chủ đặt ra. Trình độ nhận thức của người dân chính là nhân tố quyết định việc tiếp nhận và xử lí thông tin, hiểu và tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy nâng cao trình độ dân trí cũng như nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung và về tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ nói riêng là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Do đó, muốn nâng cao trình độ dân trí cho người dân, cùng với việc phổ biến kiến thức khoa học kĩ thuật, công nghệ trong sản xuất còn phải đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục, đào tạo kiến thức phổ thông, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm trang bị kiến thức và năng lực làm chủ cho Nhân dân, đặc biệt là tầng lớp nông dân.
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức của Nhân dân về vấn đề dân chủ; công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao nhận thức cho một số cán bộ, Đảng viên, một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức cũng vô cùng quan trọng bởi đây chính là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình thực thi dân chủ tại địa phương.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”11. Người giải thích: dân là chủ thì Nhà nước, Chính phủ, mọi cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy công quyền phải hết lòng, hết sức tận tụy làm đầy tớ, công bộc trung thành của nhân dân. “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kì việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”12.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2021, tr.106.
2. https://qhkt.hochiminhcity.gov.vn/goc-nhin/can-tam-nhin-quy-hoach-moi-vung-kinh-te-dong-nam-bo-114.html
3. https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/lien-ket-dua-dong-nam-bo-tro-thanh-vung-phat-trien-nang-dong-co-toc-do-tang-truong-kinh-te-cao-don-1491906216
4. https://baove.congly.vn/xay-dung-dong-nam-bo-tro-thanh-vung-van-minh-hien-dai-hoi-nhap-quoc-te-283249.html
5. https://vioit.org.vn/vn/tin-hoat-dong-nganh/cac-nhiem-vu--giai-phap-de-thuc-day-tang-truong-kinh-te-vung-dong-nam-bo--5137.4056.html
6. Hồ chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tập 13, tr.438.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.299.
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.119.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 88.
10. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020
11. Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 515.
12. Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 245, 246, 293, 294.