Bảo tồn nghệ thuật hát rối đầu gỗ

Giữa nhịp sống hiện đại, nghệ thuật hát rối đầu gỗ ở chùa Đại Bi (xã Nam Trực) vẫn tồn tại như chứng tích của một di sản hơn 900 năm tuổi. Sự bền bỉ ấy được nuôi dưỡng bởi tâm huyết giữ nghề của nhiều thế hệ nghệ nhân gắn bó trọn đời với bộ môn nghệ thuật độc đáo của quê hương.

Di sản hơn 900 năm tuổi

Hát rối đầu gỗ chùa Đại Bi (tên cổ là “Ổi Lỗi”) có nguồn gốc từ thời Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trải qua nhiều thế kỷ, nghệ thuật này hiện nay vẫn được bảo lưu trọn vẹn với 32 bài hát rối lời cổ thuộc 15 làn điệu. Là một hình thức trình diễn, hát rối đầu gỗ còn là nghi lễ thờ cúng, trong đó, nội dung các bài hát ca ngợi triều đại thịnh trị, đời sống yên vui, tôn vinh tinh thần lao động và học hành. Dân gian còn đưa vào hát rối những điển tích cổ, các giáo điều trong “Kinh thư” để thông qua nghi lễ nhắc nhở con người sống hiếu nghĩa, thủy chung và chăm lo rèn luyện.

Do gắn với tính chất nghi lễ, hát rối đầu gỗ mang sắc thái trang nghiêm, đặc biệt hiệu quả trong việc truyền tải nội dung giáo hóa. Tại lễ hội chùa Đại Bi hằng năm, các nghệ nhân trình diễn nhiều trích đoạn đặc trưng như “giáo trò”, “dâng tràng”, dâng và múa tiên, hát giáo về luân lý... làm nổi bật chiều sâu tín ngưỡng của lễ hội. Do vậy, từ lâu, hát rối (Ổi Lỗi) đã trở thành thành tố không thể tách rời của lễ hội chùa Đại Bi, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa và đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân quanh vùng.

Lễ hội chùa Đại Bi diễn ra từ ngày 20 đến 22 tháng Giêng hằng năm, thu hút hàng vạn du khách về trẩy hội. Trong không gian linh thiêng của lễ hội, hát rối được trình diễn như một nghi lễ, chứ không chỉ là tiết mục biểu diễn. Chính tính chất này của hát rối lý giải vì sao loại hình nghệ thuật có truyền thống lâu đời này ít có cơ hội xuất hiện rộng rãi trong công chúng.

Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng, Trùm trưởng hội rối chùa Đại Bi cho biết: Hát rối được biểu diễn vào 30 Tết, đầu sang canh đêm Giao thừa và trong lễ hội chùa Đại Bi. Do diễn rất ít và chỉ diễn tại chùa, nên với đông đảo công chúng, nghệ thuật này vẫn là “điều bí ẩn” đối với nhiều người.

Ông Dũng chia sẻ thêm: Trước giai đoạn 1940-1975, ở cả ba thôn Vân Chàng, Giáp Ba và Giáp Tư chỉ có hơn 10 người theo đội rối; đa phần đều là các nghệ nhân cao tuổi, nhiều người gần tuổi thất tuần, bát tuần. Đến nay, đội hát rối đã có gần 40 thành viên. Sự duy trì bền bỉ ấy có công lớn của những nghệ nhân lão làng như các cụ Cao Văn Lý, Trần Văn Giao, Đoàn Văn Goòng, Trần Khắc Bao… Nhiều cụ đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng lực lượng kế cận đã sẵn sàng tiếp nối, như nghệ nhân Đoàn Văn Thực, Vũ Mạnh Hùng, Đoàn Văn Thắng, Nguyễn Văn Trưởng, Đoàn Văn Hoàn…

Việc bảo lưu và truyền dạy di sản ngay trong gia đình, dòng họ của các hội viên là yếu tố đặc biệt quan trọng giúp nghệ thuật hát rối tồn tại qua nhiều trăm năm. Nhiều gia đình có 3-4 thế hệ nối tiếp theo nghề: gia đình nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng có 4 đời truyền nghề; gia đình ông Trần Văn Giao, Đoàn Văn Tiến có 4 đời gắn bó; gia đình các ông Cao Văn Chương, Đoàn Văn Thành, Đoàn Văn Giảng có 3 đời “đầu quân” vào đội rối…

Nhìn lại quá trình gìn giữ nghệ thuật, có thể thấy rõ sự kiên trì của lớp nghệ nhân cao tuổi và sự tiếp nhận nhiệt tình của thế hệ kế cận. Trước mỗi mùa lễ hội, đội rối đều tổ chức tập luyện đều đặn, chỉnh từng nhịp phách, từng câu hát, từng động tác rối, bảo đảm buổi trình diễn đạt chất lượng cao nhất. Công việc ấy không có danh vị hay thù lao, nhưng lại là điểm tựa để nghệ thuật độc đáo này không bị mai một. Nhiều làn điệu và lời hát cổ được truyền miệng qua nhiều thế hệ một cách chính xác. Các nghệ nhân lớn tuổi, những người nắm giữ toàn bộ lời hát rối cổ, được ví như “pho tư liệu sống” của di sản.

Bên cạnh các buổi diễn tại lễ hội chính, những chuyến hành lễ của hội rối tới lễ hội chùa Láng (mùng 6 tháng 3 âm lịch) và chùa Thầy (mùng 7 tháng 3 âm lịch) được duy trì đều đặn hằng năm. Đây là dịp để đội rối thực hành nghi lễ, đồng thời giao lưu với cộng đồng cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Tuy vậy, theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, quy mô giao lưu còn hạn chế, chưa đủ để đưa nghệ thuật này lan tỏa rộng rãi hơn trong đời sống đương đại.

Nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Dũng chuẩn bị đạo cụ trước giờ trình diễn hát rối.

Nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Dũng chuẩn bị đạo cụ trước giờ trình diễn hát rối.

Cần những giải pháp bảo tồn hiệu quả

Mặc dù di sản có tuổi đời hơn 900 năm nhưng cơ sở vật chất phục vụ bảo tồn nghệ thuật này còn khá thô sơ. Tại chùa Đại Bi hiện còn lưu giữ hai bộ tượng rối cổ: một bộ được làm năm 1957, chủ yếu dùng cho tập luyện; bộ còn lại có niên đại trên 400 năm, chỉ được đưa ra sử dụng vào các dịp chính hội của chùa. Công tác bảo quản bộ tượng rối hiện nay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền miệng, chưa có giải pháp khoa học phù hợp, khiến nhiều chi tiết của bộ tượng đứng trước nguy cơ bị mối mọt, dễ hư hỏng nếu không sớm được can thiệp.

Ngoài ra, hoạt động của hội rối từ tập luyện, trang phục đến đạo cụ gần như dựa hoàn toàn vào sự giúp đỡ của nhà chùa và sự tự nguyện của nghệ nhân. Kinh phí hỗ trợ rất hạn chế. “Đội ngũ nghệ nhân gìn giữ nghề ngay trong gia đình, dòng họ - đó là yếu tố quan trọng giúp di sản tồn tại hàng trăm năm”, một nghệ nhân hội rối chùa Đại Bi cho biết.

Một yếu tố khác hạn chế sự lan tỏa của di sản là phạm vi trình diễn của hát rối chầu Thánh quá hẹp. Chỉ có ba dịp cố định vào 30 Tết, giao thừa và lễ hội chùa Đại Bi tháng Giêng và trong không gian linh thiêng nên phần lớn công chúng ít có cơ hội tiếp cận. Nên để di sản có thể phát huy giá trị cần có sự nghiên cứu sâu sắc để tìm được cách quảng bá phù hợp. Cần có những dự án khôi phục, bảo tồn như: nghiên cứu có hệ thống về hát rối đầu gỗ, đầu tư, tu bổ dụng cụ biểu diễn, sưu tầm, bảo lưu những lời hát cổ để tránh nguy cơ thất lạc tri thức dân gian.

Hiện nay, ba hội viên cao tuổi, cũng là những người giữ vai trò chủ chốt của hội rối, gồm các ông Nguyễn Tiến Dũng, Cao Văn Chương và Đoàn Văn Tiến được kết nạp vào Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và được phong tặng Nghệ nhân dân gian (tháng 12/2024). Điều này mở ra cơ hội để hội rối tham gia hoạt động giao lưu, trình diễn ở cấp quốc gia. Mới đây nhất, Hội đã tham gia Liên hoan văn hóa dân gian các di tích tiêu biểu tỉnh Ninh Bình lần thứ nhất - năm 2025. Tuy nhiên, hội rối vẫn cần sự hỗ trợ từ ngành Văn hóa và chính quyền địa phương để quảng bá và phát huy giá trị di sản.

Nếu có giải pháp bảo tồn đúng hướng kết hợp nghiên cứu, bảo quản hiện vật, truyền nghề và truyền thông, hát rối đầu gỗ sẽ tiếp tục “sống” trong đời sống văn hóa hiện đại. Điều đó cần sự đồng hành và hành động cụ thể của các cơ quan văn hóa, chính quyền địa phương và cộng đồng, để di sản tiếp tục phát triển bền vững trong tương lai.

Minh Thuận - CTV

Nguồn Ninh Bình: https://baoninhbinh.org.vn/bao-ton-nghe-thuat-hat-roi-dau-go-251226150312712.html