Bảo tồn, phát huy giá trị văn nghệ dân gian để giữ hồn dân tộc
Sau nửa thế kỷ đất nước thống nhất (1975-2025), văn nghệ dân gian Việt Nam đứng trước ngã rẽ lớn: Một bên là thách thức từ đô thị hóa, công nghệ số làm suy giảm liên kết cộng đồng, một bên là cơ hội vàng để số hóa và phát triển kinh tế du lịch. Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, GS, TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã phân tích sâu sắc các nguy cơ biến dạng di sản, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm giữ gìn hồn dân tộc trong kỷ nguyên phát triển mới.
“Mảnh đất” màu mỡ cho thế hệ trẻ khai thác
Phóng viên (PV): Thưa giáo sư, trình diễn văn nghệ dân gian có vai trò như thế nào đối với thế hệ trẻ trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc?
GS, TS Lê Hồng Lý: Trình diễn văn nghệ dân gian là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc sắc, có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và trải nghiệm của lớp trẻ về văn hóa dân tộc. Khi người trẻ được nghe, được xem và hiểu thêm về các lễ nghi, các hình thức hát múa, cách thức sinh hoạt xưa... của cha ông, họ sẽ dần có niềm yêu thích. Từ đó, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được nối tiếp một cách tự nhiên và vững chắc.
Tôi cho rằng trình diễn dân gian ngày nay là phương tiện giáo dục văn hóa cội nguồn sống động nhất với lớp trẻ. Bên cạnh đó, hoạt động này còn là một thành phần quan trọng trong phát triển du lịch ở các địa phương, là “mảnh đất” màu mỡ cho bạn trẻ khai thác và sáng tạo.

GS, TS Lê Hồng Lý.
PV: Giáo sư nhận định về xu hướng khôi phục và làm sống lại các giá trị truyền thống ở nước ta hiện nay như thế nào?
GS, TS Lê Hồng Lý: Ở Việt Nam hiện nay, các dân tộc đều mong muốn khôi phục bản sắc của mình. Xu hướng này xuất phát từ hai lý do song song: Một là bảo tồn bản sắc, hai là phát triển kinh tế dựa trên đặc sắc văn hóa. Văn hóa càng đặc thù thì càng có sức hút. Những nơi biết tận dụng sự khác biệt sẽ thu hút du khách. Trước đây, có người nước ngoài từng nhận xét lễ hội của ta na ná những quốc gia trong khu vực, nhưng sau khi tìm hiểu kỹ, họ nhận ra mỗi làng, mỗi vùng có một nét riêng. Chính cái khác biệt ấy mới là lợi thế. Vì vậy, nhiều địa phương đang cố khai thác thế mạnh riêng của văn nghệ dân gian để tạo điểm nhấn du lịch.
PV: Hiện nay, chế độ đãi ngộ cho nghệ nhân-những "báu vật nhân văn sống" được thực hiện ra sao?
GS, TS Lê Hồng Lý: Các nghệ nhân, những người đã trải nghiệm, am hiểu và có kỹ năng thực hành văn nghệ dân gian chính là “báu vật nhân văn sống” mà Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đề cập. Chỉ có người có kinh nghiệm trực tiếp và khả năng truyền nghề mới giữ được tinh hoa của di sản. Vì vậy, việc phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian, Nghệ nhân Ưu tú là bước đi quan trọng, trong đó một tiêu chí để phong tặng là khả năng truyền dạy. Đây là cách bảo tồn hiệu quả nhất, không thể thay thế bằng sách vở hay tài liệu.
Tuy nhiên, chế độ đãi ngộ vật chất hiện chưa đồng đều và còn khiêm tốn. Một số tỉnh, thành phố làm khá tốt, nhưng một số địa phương vẫn chưa có chính sách hỗ trợ. Nghệ nhân cần có bảo hiểm y tế và một khoản hỗ trợ định kỳ để yên tâm truyền nghề. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhiều lần kiến nghị, nhưng cần một cơ chế chung từ Nhà nước. Ngoài ra, nên khuyến khích xã hội hóa. Nếu Nhà nước có cơ chế ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp tài trợ cho di sản văn hóa thì sẽ thúc đẩy nguồn lực tư nhân tham gia. Danh hiệu là bước quan trọng, song chưa đủ. Cần có cơ chế đãi ngộ vật chất, hỗ trợ thiết thực để một tấm bằng danh dự không trở nên vô nghĩa khi người nghệ nhân không có đời sống bảo đảm để tiếp tục truyền nghề.
“Ba chìa khóa vàng” để bảo tồn và phát huy văn nghệ dân gian
PV: Thách thức lớn mà văn hóa dân gian đang đối mặt hiện nay là gì, thưa giáo sư?
GS, TS Lê Hồng Lý: Văn hóa dân gian đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Đô thị hóa và công nghiệp hóa, khi làng mạc thay đổi, các không gian sinh hoạt cộng đồng giảm đi, hoạt động truyền thống dần mất chỗ diễn ra.
Tác động của công nghệ và mạng toàn cầu: Công nghệ làm con người ít giao tiếp trực tiếp hơn. Mối liên kết gia đình suy giảm khi mỗi người một điện thoại, khiến truyền thống khó tiếp nối.
Thói quen tiếp nhận văn hóa của lớp trẻ: Họ dễ bị ảnh hưởng bởi văn hóa đại chúng, giải trí toàn cầu nên ít quan tâm đến nghi thức, ca từ, nhạc khí truyền thống.
Nguy cơ đồng nhất hóa: Nếu các vùng hợp lực thành chương trình chung mà không giữ đặc trưng địa phương thì sẽ mất đi sự đa dạng văn hóa.

Tiết mục nghệ thuật khai thác từ chất liệu dân gian hát văn biểu diễn trong Lễ hội văn hóa thế giới Hà Nội lần thứ nhất, năm 2025. Ảnh: VIỆT LAM
PV: Vậy có những cơ hội nào chúng ta có thể tận dụng để phát triển văn nghệ dân gian?
GS, TS Lê Hồng Lý: Công nghệ và liên kết vùng, miền chính là cơ hội lớn nhất. Số hóa và truyền thông giúp lan tỏa nhanh và rộng. Những hình thức trình diễn trước đây chỉ diễn ra trong phạm vi một làng, giờ có thể xuất hiện trên nền tảng số, trên các tour du lịch, trong các lễ hội liên tỉnh, liên vùng để tạo quy mô lớn hơn. Nhờ vậy, văn hóa không còn manh mún, nhỏ lẻ mà có thể phát triển thành sản phẩm văn hóa quy mô tỉnh, vùng.
Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết là phải giữ được bản sắc của từng cộng đồng. Liên kết phải tăng quy mô, nhưng không được xóa nhòa cái riêng. Cần làm theo hai bước song song: Thứ nhất, khi liên kết, cần giữ phần lõi của mỗi biểu hiện văn hóa, chỉ hợp tác trên khía cạnh tổ chức, marketing, logistics. Thứ hai, xây dựng mô hình “liên minh di sản” nơi mỗi địa phương giữ phần thực hành riêng nhưng cùng dùng một nền tảng chung để quảng bá và đón khách.
PV: Giáo sư có thể nói sâu hơn về số hóa và giáo dục di sản trong việc bảo tồn giá trị văn nghệ dân gian?
GS, TS Lê Hồng Lý: Về số hóa, đây là việc cần làm ngay vì nó mang lại hai lợi ích: Một là lưu trữ, bảo tồn tư liệu, âm thanh, hình ảnh, văn bản về nghi thức, ca khúc, nhạc cụ; hai là lan tỏa, phục vụ truyền thông và giáo dục. Khi đã số hóa, có thể dựng chương trình giảng dạy, clip trải nghiệm, kho tư liệu cho học sinh và công chúng.
Về giáo dục, UNESCO coi giáo dục di sản là tiêu chí bắt buộc. Giáo dục không thể chỉ là bài giảng khô khan, mà phải tiếp cận qua trải nghiệm thực tế. Các trường cần đưa học sinh đến làng, đến nơi thực hành để các em trực tiếp tham gia, học chơi nhạc cụ, học điệu múa. Những gì học bằng trải nghiệm sẽ bám sâu hơn. Nhiều địa phương và trường học đã bắt đầu triển khai mô hình này và thấy hiệu quả rõ rệt.
Vấn đề cần lưu ý, hiện một số chương trình trình diễn phục vụ du lịch mang tính thương mại hóa có xu hướng “giả”, “diễn” nhiều hơn “thật”. Vì vậy, cần phân biệt rõ hai nhóm: Nhóm nghệ nhân, cộng đồng thực hành có truyền thống (là chủ thể giữ gìn) và nhóm đội diễn chủ yếu phục vụ du lịch (mang tính minh họa). Nếu chỉ dựa vào đội diễn thương mại mà không có nghệ nhân thực hành thì dễ gây biến dạng nội dung. Nhà nước và cơ quan quản lý văn hóa phải xác định rõ tiêu chí đâu là trình diễn truyền thống, đâu là biểu diễn thương mại, trên cơ sở đó ban hành chính sách và hỗ trợ nghệ nhân.
PV: Giáo sư có đề xuất điều gì để nâng cao vị thế di sản dân gian trong đời sống hiện đại?
GS, TS Lê Hồng Lý: Để nâng cao vị thế di sản, chúng ta cần: Số hóa toàn diện các tư liệu, ghi âm, ghi hình, bản ghi chữ viết của nghi lễ, làn điệu, chất liệu âm nhạc. Đưa trải nghiệm di sản vào chương trình giáo dục từ mầm non đến phổ thông, thông qua các chuyến thực tế, workshop, câu lạc bộ văn hóa.
Hoàn thiện chính sách đãi ngộ cho nghệ nhân: Bảo hiểm, trợ cấp hằng năm, hỗ trợ điều kiện biểu diễn và truyền dạy. Khuyến khích xã hội hóa và cơ chế ưu đãi với doanh nghiệp hỗ trợ văn hóa, như giảm thuế cho tài trợ và hợp tác phát triển sản phẩm văn hóa. Phân loại rõ ràng giữa trình diễn truyền thống và biểu diễn thương mại, xây dựng tiêu chí và chứng nhận cho nhóm trình diễn có giá trị di sản.
Đầu tư bài bản cho nghiên cứu dân tộc học và dân ca để các chương trình phát triển dựa trên cơ sở khoa học.
Những điều nói trên cũng có nghĩa, chúng ta phải tận dụng “ba chìa khóa vàng” để bảo tồn và phát huy văn nghệ dân gian, đó là: Đãi ngộ nghệ nhân, số hóa và tập trung cho giáo dục trải nghiệm.
PV: Trân trọng cảm ơn giáo sư!











