Bảo tồn và phát huy giá trị Lễ hội truyền thống chùa Nành

Lễ hội chùa Nành vẫn luôn được người dân Ninh Hiệp bảo tồn, lưu giữ; đây là sự tri ân với tổ tiên; những người có công dựng nước, giữ làng, mở đất và giữ gìn mạch sống tín ngưỡng từ ngàn đời nay.

Lễ hội chùa Nành một trong những lễ hội truyền thống đặc sắc của vùng Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, Hà Nội), diễn ra từ mùng 4 đến mùng 6 tháng hai Âm lịch hàng năm. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Lễ hội chùa Nành một trong những lễ hội truyền thống đặc sắc của vùng Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, Hà Nội), diễn ra từ mùng 4 đến mùng 6 tháng hai Âm lịch hàng năm. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Lễ hội chùa Nành (Pháp Vân) là một trong những lễ hội truyền thống đặc sắc của Hà Nội, không chỉ là dịp tưởng nhớ công đức thần linh mà còn góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lâu đời, gắn kết cộng đồng, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân.

Chùa Nành thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, sau sáp nhập đơn vị hành chính là xã Phù Đổng, thành phố Hà Nội. Sở dĩ dân gian đặt tên chùa Nành, vì trong chùa có tượng Phật Pháp Vân, thường được người xưa gọi là tượng Bà Nành.

Chùa Nành còn có tên là chùa Cả, tên chữ Pháp Vân tự, là chùa lớn nhất trong ba ngôi chùa của làng Nành, cùng với chùa Khánh Ninh dựng năm 1664, chùa Đại Bi dựng năm 1673.

Ngôi chùa cổ kính, trầm mặc có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao

 Cổng ngũ môn của chùa Nành với kiến trúc 2 tầng. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Cổng ngũ môn của chùa Nành với kiến trúc 2 tầng. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Tương truyền, chùa Nành được xây dựng từ thời Lý và là một trong bốn ngôi chùa lớn nhất cả nước, cùng với chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đậu (Hà Nội).

Đây cũng là một trong bốn ngôi chùa gắn với hệ thống thờ “tứ pháp” là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện-các vị thần đại diện các yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp (mây, mưa, sấm, chớp). Ngoài ra, chùa còn thờ bà tổ nghề thuốc, vì Ninh Hiệp nổi tiếng là làng nghề buôn bán dược liệu lâu đời.

Chùa Nành nhìn rất cổ kính với kiến trúc thấp, mái ngói cũ kỹ rêu phong. Cổng chùa được xây bề thế, gồm 2 tầng, kiểu vòm cuốn bằng chất liệu đá xanh. Chùa nằm trên thế đất “rồng cuốn hổ chầu”, có quy mô 100 gian, gồm các hạng mục: Thủy đình, tam quan, tiền đường, tam bảo, tả vu, hữu vu, nhà Tổ, điện Mẫu. Trước mặt chùa có sân rộng dài, đối diện là tòa thủy đình gồm 2 tầng 8 mái được xây dựng vào thế kỷ 18 trên một ao nhỏ, là nơi biểu diễn rối nước trong dịp lễ hội hằng năm.

 Mặt trước của chùa chính nhìn hơi chếch về hướng tây. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Mặt trước của chùa chính nhìn hơi chếch về hướng tây. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Chùa Nành có lối kiến trúc chữ “công”, với tòa tiền đường 7 gian 2 dĩ, tòa thiêu hương 6 gian và thượng điện 3 gian. Nổi bật trong tổng thể là tòa tiền đường có kiến trúc hiếm thấy, với hai bên hồi là lầu chuông và gác khánh được xây kiểu chồng diêm đăng đối. Hai góc mái nhô cao, mỗi góc gồm 4 mái với đầu đao cong vút. Giữa 2 góc là đôi rồng chầu mặt nguyệt lớn, tạo cho tổng thể kiến trúc uy nghi, đường bệ mà vẫn gần gũi với đời thường. Bộ vì được làm theo kiểu “thượng cốn, hạ kẻ”.

Tòa thiêu hương 6 gian kề sau Tiền đường, trùng thiềm với 3 gian thượng điện. Tòa thượng điện có nền cao hơn 1m so với các kiến trúc xung quanh. Nối liền 2 bên Tiền đường xuống điện Mẫu là hai dãy nhà giải vũ, tạo cho chùa khép kín theo kiểu nội công, ngoại quốc. Cách chùa Nành khoảng 200m, còn có Thạch sàng, là một sập bằng đá tọa lạc cùng một cây hương đặt trong một ngôi nhà tám mái, dựng vào năm 1733. Tương truyền đây là nơi ngự của Khâu Đà La thời Ngài đến nước ta truyền đạo-thế kỷ thứ 6.

Ngày nay, chùa Nành còn lưu giữ được rất nhiều cổ vật quý như hệ thống tượng Phật cổ với 116 pho, gồm đủ tượng Phật, tượng Mẫu, tượng Hậu được tạo tác tỉ mỉ, công phu mang niên đại nghệ thuật của nhiều thời đại, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, trong đó nổi tiếng nhất là bộ tượng Tam thế Phật được tạo tác từ thế kỷ 16, mang đậm phong cách tạc tượng thời nhà Mạc. Mỗi pho tượng đều có chiều cao 0,80m, đặt trên tòa sen và đế cao 0,70m.

 Hệ thống tượng phong phú tại chùa Nành. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Hệ thống tượng phong phú tại chùa Nành. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Cùng với Tam Thế, còn có nhiều bộ tượng rất quý mang giá trị nghệ thuật cao như tượng Tuyết Sơn, tượng Bát bộ Kim Cang, tượng thập Điện Minh Vương, tượng Thập bát La hán..., trong đó, tượng bà Nành, tức Pháp Vân Bồ-tát là tượng độc đáo nhất, lưu giữ chứng tích của thời kỳ sơ khởi Phật giáo mới bắt đầu du nhập vào Việt Nam.

Ngoài ra, chùa Nành còn có nhiều di vật của thế kỷ 17,18 như chuông đồng (1653), khánh đồng (1733), 3 tấm bia đá, thần phả, sắc phong của các triều đại Mạc-Lê-Tây Sơn-Nguyễn.

Không chỉ là ngôi chùa cổ mang nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật, chùa còn là di tích lịch sử quan trọng. Năm 1907 tại chùa Nành, chi hội của phong trào Đông Kinh nghĩa thục do cụ Cử Huyên đứng đầu đã được thành lập.

Cũng tại chùa Nành, các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng đã đặt cơ sở cách mạng từ 1942 đến 1945. Năm 1989, chùa Nành đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Lễ hội chùa Nành-nét độc đáo và đặc sắc của làng quê Bắc Bộ

 Đoàn rước Phật từ di tích Thạch Sàng về chùa Nành. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Đoàn rước Phật từ di tích Thạch Sàng về chùa Nành. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Hội chùa Nành là một trong những lễ hội đặc sắc ở Hà Nội với nhiều nghi thức và hoạt động dân gian cổ truyền, được tổ chức từ mồng 4 đến mồng 6 tháng 2 âm lịch hằng năm.

Điểm đặc trưng của Lễ hội chính là chuỗi nghi lễ truyền thống được tổ chức nghiêm cẩn và giàu tính biểu tượng như: lễ rước Âm; lễ rước Phật, Thánh; lễ lục cúng, lễ tiến hương, tiến hoa, lễ kết hội bằng một đám rước thần Khâu Đà La từ Thạch Sàng (nơi nghỉ tối của đức Khâu Đà La thời xưa) về chùa…đặc biệt là Lễ nâng cây phan, dựng cây phướn, lễ nhiễu xung quanh cây phướn.

Mỗi nghi lễ lại gắn với một sự tích mang đậm dấu ấn lịch sử-văn hóa của vùng Kinh Bắc xưa; minh chứng rõ nét cho quá trình Phật giáo hòa nhập vào tín ngưỡng bản địa, hình thành nên một dòng Phật giáo mang màu sắc Việt Nam.

Lễ rước Âm được diễn ra lúc nửa đêm từ mùng 6 tháng hai Âm lịch. Theo quy định, khi thực hiện lễ rước Âm người tham gia đoàn rước không được nói chuyện, trống khẩu và mèn phải bịt kín bằng vải. Người đánh trống khẩu, mèn chỉ được dùng tay gõ lên mặt trống đảm bảo chỉ phát ra tiếng bục bục làm hiệu lệnh dẫn đường. Tất cả hộ gia đình trên đoạn đường thực hiện lễ rước Âm từ chùa Nành đến di tích Thạch Sàng phải thực hiện tắt đèn khi đoàn rước đi qua.

 Lễ hội chùa Nành là dịp để người dân tưởng nhớ công đức thần linh, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lâu đời, gắn kết cộng đồng, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Lễ hội chùa Nành là dịp để người dân tưởng nhớ công đức thần linh, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lâu đời, gắn kết cộng đồng, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Tục nâng phan có liên quan đến sự tích lá cờ phan, theo truyền thống, chỉ những trai làng trên 18 tuổi mới được tham gia. Nghi thức này mang ý nghĩa sâu xa về sự sinh dưỡng, khẳng định rằng sự thịnh vượng của làng phụ thuộc vào việc nâng cây phan đúng cách. Cây phan là một bó khoảng 60 cây tre để nguyên cả thân và ngọn, bởi vậy phải có sức khỏe và luyện tập công phu mới nâng cây phan lên được. Tục nâng phan không chỉ thể hiện sức mạnh thể chất mà còn là sự đua tài về khéo léo, đoàn kết và hiệp lực của cộng đồng. Tục nâng phan trong lễ hội chùa Nành được coi là một đặc trưng quan trọng, tạo nên "thương hiệu" riêng biệt cho hội chùa Nành.

Vào những năm hội đại (cứ 5 năm một lần), chùa còn có lễ nghi chạy chữ. Dân làng chọn khoảng trên dưới 20 nữ thanh niên mặc váy chùng đen, áo tứ thân màu hồng, đầu vấn khăn trần, tay cầm quạt giấy. Trước hết là những động tác cung kính lễ Phật, sau đó biểu diễn nhiều động tác múa uyển chuyển theo nhịp nhạc, trống, chiêng, mõ… Rồi chạy lượn theo đường nét chữ Hán đã định, đến khi dừng lại thì kết thành chữ, thường là biểu thị các chữ Hán ít nét nhưng có ý nghĩa như: “Mẫu nghi thiên hạ” hoặc “Thiên hạ thái bình”…

Không chỉ sinh động phần lễ, phần hội ở chùa Nành cũng rất hấp dẫn với các trò chơi dân gian, thể hiện tín ngưỡng của người dân, đặc biệt là các trò chơi liên quan đến nền nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng sông Hồng như cầu mưa, cầu nước, cầu phồn thực, giải vật truyền thống, hát quan họ, hát tuồng, viết thư pháp... thu hút hàng ngàn người dân và du khách thập phương đến tham dự.

 Thi đấu cờ tướng tại Lễ hội. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Thi đấu cờ tướng tại Lễ hội. (Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam)

Vào buổi tối, hiên trước Tiền đường chùa trở thành sân khấu để biểu diễn chèo, hát tuồng; trên hồ trước Tam quan chùa có hát quan họ bơi thuyền; trên sân chùa thi đấu cờ tướng; trò chơi thi nâng cây phan…

Trải qua bao biến thiên lịch sử, Lễ hội truyền thống chùa Nành vẫn luôn được người dân Ninh Hiệp bảo tồn, lưu giữ theo nghi lễ, làm nên sức sống lâu bền của Lễ hội. Đây là sự tri ân của cộng đồng với tổ tiên; những người có công dựng nước, giữ làng, mở đất và giữ gìn mạch sống tín ngưỡng vốn có từ ngàn đời nay.

Sau khi đã được công nhận Di sản văn hóa Phi vật thể Quốc gia, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Phù Đổng Nguyễn Đình Quang cho biết, để phát huy giá trị Lễ hội chùa Nành, địa phương sẽ tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý, bảo tồn Di sản văn hóa lễ hội Chùa Nành.

Xã sẽ xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn, trong đó có Lễ hội chùa Nành, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá giới thiệu di sản, Nghiên cứu, sưu tầm và tư liệu hóa di sản một cách hệ thống, hiện đại và sáng tạo; tăng cường truyền dạy và giáo dục di sản trong cộng đồng, phục hồi các thành tố cấu thành nhằm duy trì sức sống của di sản; phát huy giá trị lễ hội gắn với phát triển du lịch văn hóa-tâm linh trên địa bàn.

Lễ hội chùa Nành được vinh danh Di sản văn hóa Phi vật thể Quốc gia sẽ là một địa chỉ đỏ góp phần giáo dục truyền thống, là điểm tham quan, nghiên cứu văn hóa và lịch sử của vùng đất Phù Đổng-điểm du lịch hấp dẫn của Thủ đô./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-le-hoi-truyen-thong-chua-nanh-post1064829.vnp