Bảo tồn văn hóa bản địa: Tạo sinh kế du lịch bền vững cho đồng bào thiểu số

Bảo tồn di sản văn hóa, đầu tư cho du lịch miền núi để phát triển sinh kế bền vững, đặc biệt các tri thức dân gian của đồng bào dân tộc... cần được xem là một trụ cột trong chiến lược quốc gia.

Âm vang nhạc cụ truyền thống từ Tây Nguyên được cất lên đầy tự hào ở Hàn Quốc trong chuyến đi quảng bá văn hóa Việt Nam. (Nguồn ảnh: Tarzan Tây Nguyên)

Âm vang nhạc cụ truyền thống từ Tây Nguyên được cất lên đầy tự hào ở Hàn Quốc trong chuyến đi quảng bá văn hóa Việt Nam. (Nguồn ảnh: Tarzan Tây Nguyên)

Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, với mục tiêu “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” được nhiều địa phương triển khai, và đạt kết quả nổi bật, khơi dậy niềm tự hào về bản sắc văn hóa đồng thời tạo sinh kế mới cho cộng đồng.

Đặc biệt, trong phiên thảo luận tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV mới đây, nhiều đại biểu cũng đã đề cập đến vai trò của văn hóa, di sản và du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội, coi đây là “nguồn lực nội sinh và sức mạnh mềm” của quốc gia.

Đáng chú ý, trong bức tranh phát triển chung, Gia Lai của vùng đất Tây Nguyên nổi lên không chỉ bởi cảnh quan hùng vĩ, mà còn bởi kho tàng văn hóa đặc sắc của đông đảo các dân tộc anh em cùng sinh sống. Địa phương này xác định công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống là nền tảng thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, tạo sinh kế, góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới cho người dân.

Tạo sinh kế bền vững từ công tác bảo tồn

Bảo tồn bản sắc trong phát triển, xây dựng hệ sinh thái du lịch xanh, thúc đẩy công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số trong quản lý di sản, và bảo đảm hạ tầng miền núi gắn với phát triển du lịch bền vững… là một số giải pháp then chốt được các đại biểu Quốc hội chỉ rõ.

Theo đại biểu Quốc hội Đặng Thị Bảo Trinh (Đà Nẵng), miền núi, trung du nước ta là kho báu tự nhiên vô giá, hội tụ cảnh quan hùng vĩ, khí hậu mát mẻ cùng nhiều giá trị văn hóa bản địa độc đáo, từ ruộng bậc thang, thác nước, rừng nguyên sinh đến nghề dệt thổ cẩm, ẩm thực, lễ hội và tri thức dân gian của đồng bào dân tộc. Vì vậy, cần nhìn nhận miền núi là vùng có cơ hội lớn cho phát triển xanh, bảo tồn di sản văn hóa bản địa.

 Khi di sản văn hóa truyền thống bản địa được bảo tồn và lan tỏa ra ngoài biên giới quê hương Việt Nam. (Nguồn ảnh: Tarzan Tây Nguyên)

Khi di sản văn hóa truyền thống bản địa được bảo tồn và lan tỏa ra ngoài biên giới quê hương Việt Nam. (Nguồn ảnh: Tarzan Tây Nguyên)

“Việc đầu tư cho du lịch miền núi để phát triển kinh tế, bảo tồn di sản văn hóa phải được xem là một trụ cột trong chiến lược phát triển vùng và quốc gia. Do đó, cần có cơ chế thuận lợi để người dân, nhất là phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số trở thành chủ thể của phát triển du lịch miền núi, qua đó biến kho tàng văn hóa truyền thống thành tài sản sinh kế bền vững,” đại biểu Bảo Trinh nhấn mạnh.

Là một trong những địa phương tích cực triển khai Dự án 6 của cả nước, nhằm khôi phục, gìn giữ và lan tỏa các giá trị văn hóa truyền thống, thời gian qua Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Gia Lai đã tổ chức hàng chục lớp kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc Bahnar, Jrai, Chăm Hroi, H'rê...

Theo đó, những “báu vật sống” của cộng đồng như sử thi, lễ hội, nghề thủ công, làn điệu dân ca, nhạc cụ truyền thống đã được phục dựng, ghi hình, in ấn và lưu giữ. Nổi bật là việc phục dựng Lễ mừng lúa mới của dân tộc Jrai tại làng Ia Gri (Chư Păh) trong khuôn khổ Tuần lễ Hoa Dã Quỳ – Núi lửa Chư Đang Ya.

Đây không chỉ là sự kiện văn hóa, mà còn minh chứng cho mối liên kết giữa văn hóa bản địa và du lịch cộng đồng. Lễ hội ăn cốm lúa mới của người Bahnar K'riêm và Lễ hội Thần Làng của người Chăm H'roi (huyện Vĩnh Thạnh) cũng tạo được sức hút đặc biệt đối với du khách thập phương.

Trong giai đoạn 2023-2024, cơ quan quản lý địa phương đã hỗ trợ kinh phí, tổ chức lễ tôn vinh và mở các lớp truyền dạy cho học viên người Bahnar, Jrai. Những tinh hoa từ nghệ thuật tạc tượng gỗ, dệt thổ cẩm, đan lát đến diễn tấu cồng chiêng đều được các nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú – người nắm giữ tri thức, kỹ năng và tâm huyết với văn hóa dân tộc trao truyền trong không gian của làng quê Tây Nguyên.

 Vẻ đẹp của đại ngàn Tây Nguyên. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Vẻ đẹp của đại ngàn Tây Nguyên. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Các lớp học không chỉ bảo tồn tri thức văn hóa mà còn tạo sinh kế cho người dân thông qua du lịch trải nghiệm, trưng bày và buôn bán sản phẩm thủ công. Năm 2024, chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức & Trải nghiệm” tại Quảng trường Đại đoàn kết đã mở rộng thêm 46 buổi trình diễn, trở thành điểm hẹn văn hóa quen thuộc, thu hút đông đảo du khách.

Lãnh đạo địa phương xác định rõ mục tiêu “bảo tồn để phát triển,” từ khôi phục lễ hội, truyền dạy nghề truyền thống đến tổ chức hội thi thể thao dân tộc, mọi hoạt động đều gắn với quảng bá du lịch bản địa.

Khi bản sắc truyền thống trở thành giá trị cốt lõi

Một trong những điểm sáng khi Dự án 6 được Gia Lai triển khai là việc hình thành mô hình “Sắc màu văn hóa Gia Lai - Bảo tồn và phát triển,” bao gồm: Lắp dựng mô hình nhà rông, cây nêu; mua vật dụng, đạo cụ… phục vụ trưng bày, trang trí và trải nghiệm mô hình… giúp công chúng có cơ hội trải nghiệm thực tế, hiểu sâu hơn về bản sắc các dân tộc.

Ngoài ra, nhiều câu lạc bộ cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa dân gian được thành lập tại các huyện Kbang, Ayun Pa, Chư Păh, Ia Pa... đang góp phần duy trì đời sống văn hóa cộng đồng; các đội văn nghệ truyền thống ở 81 thôn, làng vùng dân tộc thiểu số hoạt động thường xuyên, trở thành hạt nhân lan tỏa tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc.

Những bộ phim tài liệu, phóng sự quảng bá như “Du lịch cộng đồng – kỳ vọng hướng đi mới cho đồng bào Jrai” hay “Gia Lai – nơi văn hóa trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn” đã giúp vùng đất và con người Tây Nguyên trở nên gần gũi hơn với du khách.

 Du khách nước ngoài trải nghiệm di sản văn hóa Việt Nam. (Nguồn ảnh: Tarzan Tây Nguyên)

Du khách nước ngoài trải nghiệm di sản văn hóa Việt Nam. (Nguồn ảnh: Tarzan Tây Nguyên)

Các điểm đến du lịch như làng Kép (Chư Păh), buôn Mlah (Krông Pa), làng Hà Ri (Vĩnh Hiệp)... được đầu tư, tôn tạo; nhà văn hóa, khu thể thao thôn, tủ sách cộng đồng được xây dựng, trở thành thiết chế văn hóa quan trọng phục vụ đời sống tinh thần của người dân.

Có thể thấy, từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Dự án 6, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã có nhiều chuyển biến tích cực, thiết thực và hiệu quả; công tác khôi phục, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào được quan tâm; đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao và trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao tại các nhà văn hóa, khu thể thao thôn và tương đương vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tổ chức bảo tồn lễ hội truyền thống gắn với phát triển du lịch, tổ chức tập huấn truyền dạy di sản văn hóa truyền thống… góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho người dân ở địa phương.

Nếu tiếp tục theo đuổi con đường đúng đắn này, trong tương lai Gia Lai được đánh giá sẽ tiếp tục khẳng định vị thế là trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc của Tây Nguyên, nơi bản sắc dân tộc vừa được bảo tồn vừa có cơ hội tỏa sáng trong bối cảnh hội nhập và số hóa quốc tế./.

 H’Hen Niê quảng bá văn hóa truyền thống của người Ê Đê trong MV "Con sinh ra là để phi thường." (Ảnh: CTV/Vietnam+)

H’Hen Niê quảng bá văn hóa truyền thống của người Ê Đê trong MV "Con sinh ra là để phi thường." (Ảnh: CTV/Vietnam+)

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/bao-ton-van-hoa-ban-dia-tao-sinh-ke-du-lich-ben-vung-cho-dong-bao-thieu-so-post1074787.vnp