Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho lao động nữ làm việc ở nước ngoài
Làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài?
Lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chỉ chiếm hơn 30% tổng số nhưng lại đóng góp tới 50% lượng kiều hối. Tuy nhiên, khi tham gia vào thị trường lao động nước ngoài, không ít lao động nữ di cư phải đối mặt với nhiều thách thức và rào cản hơn so với nam giới: phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng, bóc lột và phân biệt đối xử; chưa thích ứng và quen với môi trường, phong tục tập quán dẫn đến việc bị đe dọa, cưỡng bức lao động, trả tiền lương không tương xứng với sức lao động...
Chị Lê Thị Xuyến, ở huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, từng đi lao động ở Malaysia vào năm 2012, làm việc cho một công ty sản xuất linh kiện ô tô. Quá trình làm việc, được trả công đầy đủ. Tuy nhiên, chị Xuyến cũng cho biết, không ít lao động nữ gặp nhiều khó khăn. Một số người bỏ trốn, ra ngoài làm việc tự do dễ dẫn đến việc bị áp đặt, đe dọa và cưỡng bức lao động, bạo lực tình dục. Bất đồng ngôn ngữ cũng là một rào cản đối với lao động nữ.
“Khi sang đó, ngôn ngữ bất đồng, làm việc không như lúc mình được tư vấn. Có một số chị nghe theo bạn bè, bỏ ra ngoài nên gặp phải chủ không tốt, nơi ăn ở không được đảm bảo cũng như ăn uống thiếu thốn. Ở nơi tôi ở, khi đó đi rất nhiều, 43 người đến Malaysia nhưng một số chỉ đi được 6 đến 9 tháng thì phải về trước hạn do gặp nhiều trục trặc. Một số dành dụm được tiền mua vé máy bay về nhưng một số gia đình phải gửi tiền sang để mua vé máy bay trở về”, chị Xuyến chia sẻ.
Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, trong giai đoạn từ 2013 - 2021 đã có gần 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài. 3 tháng đầu năm nay, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là gần 38.000 lao động, trong đó có gần 13.000 lao động nữ. Từ năm 2007 đến nay, tỷ lệ lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài chiếm khoảng 30% tổng số lao động hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài.
Sự khác biệt về nền văn hóa là rào cản lớn với phụ nữ khi di cư lao động nước ngoài, đặc biệt là phụ nữ vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trên thực tế, nhiều chị em chưa nắm được các kỹ năng giao tiếp ứng xử cũng như luật pháp về lao động, các luật liên quan đến xuất khẩu lao động, chưa biết được các địa chỉ hỗ trợ người lao động làm việc tại nước ngoài.
Bà Nguyễn Thị Thúy, chuyên gia độc lập về lao động di cư cho rằng: “Lao động của chúng ta đi làm việc ở các nước như Đông Bắc Á, Đông Nam Á thì còn đỡ, nhưng khi đi sang các nước Trung Đông hoặc sáng các nước Tây Âu và Đông Âu thì văn hóa hoàn toàn khác và ứng xử hoàn toàn khác nên họ trở thành đối tượng rất dễ bị rủi ro. Có thể thì bạo lực, bị bắt nạt nên chị em mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về ngôn ngữ về văn hóa cũng như về kỹ năng nghề vì khi chúng tôi đi khảo sát thấy rằng kỹ năng nghề của chị em và của tất cả các lao động còn ở dưới mức trung bình”.
Sau khi lao động trở về và tái hòa nhập cộng đồng, lao động nữ gặp khó khăn trong tìm kiếm cơ hội việc làm có thể phát huy được tay nghề. Tình trạng khá phổ biến là người lao động di cư ít nhiều học được kỹ năng chuyên môn trong quá trình lao động ở nước ngoài (70%) nhưng lại ít được áp dụng ở quê nhà khi trở về (30%)... Khi hồi hương, lao động nữ di cư còn có thể phải đối mặt với các rạn nứt trong hôn nhân và gia đình, thậm chí cả bạo lực gia đình.
Trước thực tế này, bà Vũ Hồng Minh, Phó Giám đốc Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất: cần tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ban ngành và các tổ chức, đơn vị để thực thi và giám sát việc thực thi Luật và các chính sách mới trong thực tiễn cuộc sống; đẩy mạnh thông tin tuyên truyền để người lao động hiểu rõ được quyền lợi đi kèm trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, đặc biệt là chị em phụ nữ vùng sâu, xa, có hoàn cảnh khó khăn; thông tin rộng rãi địa chỉ, số điện thoại các cơ quan, đơn vị hỗ trợ để giải quyết nhanh chóng các vấn đề cấp thiết cho phụ nữ di cư lao động ở nước ngoài; chia sẻ các điển hình tốt, các kinh nghiệm trong việc hỗ trợ, bảo hộ công dân giữa các nước gửi lao động.
“Trong điều 69 ban hành năm 2020 về luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thì chúng ta đã quy định cụ thể hơn một số các điều kiện như vấn đề tuyển chọn và đào tạo cho người lao động trước khi đi, chúng ta nhấn mạnh bảo đảm bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử cho người lao động, đồng thời cho người lao động nhận thức cũng như có ý thức về phòng chống buôn bán người hay chống bị lừa gạt, bị lừa dối thông tin, tiếp nhận thông tin khi đi làm việc ở nước ngoài. Trong quá trình làm việc ở nước ngoài, chúng ta cũng có các quy định làm thế nào để bảo vệ tốt hơn quyền của người lao động, trong đó đặc biệt quan tâm đến lao động nữ”, bà Minh nói.
Là một tổ chức xã hội chuyên trợ giúp cho lao động di cư trong và ngoài nước, bà Nguyễn Thu Giang, Phó giám đốc Viện Phát triển sức khỏe Cộng đồng ánh sáng (Light) cho rằng, bên cạnh việc phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế triển khai nhiều hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình và mua bán người dựa vào cộng đồng, cần có thêm các dịch vụ hỗ trợ ban đầu cho phụ nữ di cư hồi hương, tăng cường nhận thức về di cư an toàn và khả năng ứng phó cho lao động nữ di cư.
“Chúng tôi phối hợp rất chặt chẽ trong quá trình xây dựng các hướng dẫn về an sinh xã hội hay triển khai các chương trình về chính sách luật pháp; phối hợp với các tổ chức, cơ quan chính quyền, với các đoàn thể xã hội, kết nối với các nhóm đối tượng, những người cần hỗ trợ để có những trường hợp không chỉ đơn lẻ mà đôi khi chúng tôi đưa đến cơ quan ngoại giao cả một vấn đề lớn để có thể ngăn chặn. Do đó, trách nhiệm đầu tiên là với đối tượng, nâng cao năng lực cho họ, trách nhiệm thứ hai là liên kết, phối hợp với các bên và trách nhiệm thứ ba đó là học hỏi,chia sẻ và tham gia vào quá trình xây dựng các chính sách làm sao cho thực sự phù hợp với nhóm đối tượng hơn”, bà Giang cho hay.
Các chuyên gia về lao động, cũng cho rằng, cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện những chính sách dành cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về đảm bảo nguyên tắc giới; cần có sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tham gia hỗ trợ cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ tái hòa nhập thị trường./.