Bảo vệ tính chính danh, tính chính pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ mấy ngàn năm xưa, cổ nhân vô cùng coi trọng 'danh chính ngôn thuận' và mấy ngàn năm qua, lớp lớp thế hệ ở quốc gia dân tộc nào cũng đều là như vậy. Nhưng thời nay, có không ít người danh đã không chính, hay 'hữu danh vô thực', tức cũng 'danh không chính', thậm chí nhân danh vô lối, tiếm danh tăm tối, lại nói quàng nói xuyên, đi ngược lòng người, bất chấp sự thật và trái lẽ tự nhiên. Điều này càng đúng với những ai đang mưu toan bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử và thực tiễn Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bài 1: Đảng Cộng sản Việt Nam - lựa chọn tất yếu của lịch sử và của nhân dân
Nhiều đảng phái chính trị ra đời nhưng đều bất lực trước đòi hỏi của dân tộc
Lịch sử Việt Nam hơn 91 năm qua, nhìn bao quát, có thể nói là lịch sử của sự lựa chọn, khẳng định và thực thi mục tiêu phát triển gắn với sự lựa chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước, dẫn dắt dân tộc, vì mục tiêu đó. Ngay từ những thập niên đầu tiên tới những năm 50 của thế kỷ 20 đã và luôn là lịch sử thăng trầm của sự đào thải, sàng lọc, kiểm nghiệm và lựa chọn đó.
Năm 1930, qua hơn nửa thế kỷ, kể từ năm 1858, lúc bấy giờ, đất nước rên xiết trong vòng nô lệ của chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Nhu cầu tất yếu dân tộc phải độc lập, nhân dân phải được tự do và dân chủ, hoàn toàn bế tắc, chưa thấy tương lai. Độc lập tự do hay là chết? Hàng loạt cuộc khởi nghĩa do giai cấp nông dân, các sĩ phu yêu nước Việt Nam ngõ hầu trả lời câu hỏi lịch sử đó, nhưng đều lần lượt thất bại. Các đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước ta, lúc bấy giờ, nhảy ra tranh đoạt vũ đài chính trị dân tộc, cũng đông đúc chưa từng thấy. Ai cũng biết, từ đảng của giai cấp nông dân (Nghĩa hưng, năm 1907); đảng của giai cấp tư sản, địa chủ (Lập hiến, năm 1923)... tới đảng của tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức tiểu tư sản (Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng Thanh niên, Đảng An Nam độc lập (năm 1927), Việt Nam Quốc dân đảng (năm 1927)... rồi đảng của bọn tay sai của đế quốc Pháp và phát xít Nhật, (Đại Việt quốc gia xã hội đảng, Đại Việt quốc dân đảng (những năm 1940 tới khi Việt Nam giành được độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945); chen chúc các đảng phản động (Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách)... thật huyên náo, tới mức hỗn loạn chính trường. Trong số ấy, chỉ một số đảng mong chấn hưng đất nước nhưng “lực bất tòng tâm”, số còn lại những mưu toan tính biến đất nước thành nơi thử nghiệm những mưu đồ chính trị của giai cấp, tầng lớp họ.
Nhưng rốt cuộc, tất cả những đảng đó đã lùi vào dĩ vãng của lịch sử và bị lịch sử dân tộc chôn vùi rất lặng lẽ trái với sự huyên náo đến mức hỗn loạn lúc các đảng này xuất hiện và khua chiêng gõ mõ trên chính trường Việt Nam lúc bấy giờ. Các đảng này hoặc tự phải diệt vong hoặc bị giải tán. Theo đó, các giai cấp, tầng lớp đại diện cho các đảng đó cũng cáo chung vai trò lãnh đạo dân tộc. Thách thức của lịch sử về vị trí, vai trò của đảng chính trị đối với vận mệnh cứu đất nước khỏi vòng nô lệ, nhân dân khỏi xiềng xích vong quốc nô vẫn đang bỏ ngỏ. Điều đó ai nấy đều rõ.
Đảng Cộng sản Việt Nam mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam
Trong thời gian ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giữa “một rừng” đảng phái chính trị ở Việt Nam. Không ồn ào như các đảng trên ra đời từ sớm, mà trái lại, Đảng lặng lẽ hiện diện, thậm chí phải tạm lánh ở nước ngoài, vì Đảng “là con nòi” của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, được hun đúc bởi truyền thống yêu nước thương nòi Việt Nam, dưới ngọn cờ của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nguyện chiến đấu và hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng Cộng sản bị kẻ thù vây bủa, đàn áp đẫm máu, bị các đảng khác đương thời chèn ép, tranh đoạt sự ảnh hưởng. Trong 15 năm đầu, bao lần Đảng bị thực dân Pháp vây ráp, khủng bố trắng, hàng nghìn đảng viên của Đảng bị tù đầy, chém giết, hàng vạn đồng bào bảo vệ Đảng bị bắt bớ, lưu đầy, chỉ riêng 31 Ủy viên Trung ương của Đảng đã bị thực dân Pháp “tặng” cho 221 năm tù khổ sai. Nhiều Tổng Bí thư của Đảng bị thực dân Pháp tử hình... Lịch sử của Đảng 15 năm đầu được viết bằng máu đào và xương trắng đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cuộc đấu tranh song trùng: Giữa Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ phong kiến bán nước của chúng và giữa các đảng chính trị Việt Nam trong việc giành vị thế cầm quyền đất nước... Tất cả được thử thách qua sự sàng lọc, lựa chọn và đào thải của lịch sử, của nhân dân. Đó là khí phách Việt Nam. Điều đó ai cũng đều thấy.
Một đảng cộng sản như thế xứng đáng là một đảng gánh vác sứ mệnh lịch sử, đứng mũi chịu sào trước nhân dân, dẫn dắt dân tộc. Vì sự thật Đảng vốn là “đứa con nòi” phải thuộc về dân tộc, phải là của nhân dân và đảm đương sứ mệnh “phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”, dẫn dắt đất nước thực thi trọng trách nhân dân giao phó: Độc lập dân tộc và CNXH. Đảng Cộng sản Việt Nam là người kết tinh, chung đúc những tố chất của một đảng vô sản kiểu mới và thực tế đủ bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ lãnh nhiệm trọng trách ấy của đất nước đặt ra và được nhân dân tin theo và hy sinh vì nó. Và Đảng trở thành một đảng dẫn dắt dân tộc và sau nay trở thành một đảng cầm quyền. Không một lực lượng chính trị nào Việt Nam lúc bấy giờ và bây giờ đủ tầm nhìn chính trị, bản lĩnh chính trị có thể làm nổi, không một ai có đủ chính danh cho tới tận hôm nay để có thể, dù cả gan, dù bất chấp đạo lý và pháp lý, làm vấy bẩn nó.
Sinh ra trong lòng dân tộc và đồng hành cùng dân tộc bẻ gãy gông xiềng nô lệ quàng lên cổ đất nước, giành lại độc lập cho Tổ quốc, lập nên chính quyền của nhân dân, và Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Điều đó làm nên địa vị lịch sử một cách tự nhiên và địa vị pháp lý của Đảng một cách tất yếu. Vấn đề quan trọng hơn hết và quyết định tất thảy là, địa vị cầm quyền đó của Đảng đã được bảo đảm bởi năng lực cầm quyền và uy tín cầm quyền trên thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam suốt hơn 91 năm qua; và, vị thế nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hơn 76 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng, trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và trọng thị.
Vì không có trọng trách gì nặng nề và vẻ vang hơn, dù trong hoàn cảnh nào, Đảng luôn là đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam-giai cấp đại biểu cho yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến. Đảng không có lợi ích nào cao hơn rằng, Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Vì Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị. Mục tiêu phấn đấu của Đảng không có gì khác ngoài “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong vị thế vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành “Đảng ta”, “Đảng của chúng ta”, “Đảng của dân tộc chúng ta”... Đó là đạo lý Việt Nam.
Và đi trên con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) tới cái đích cao quý ấy được Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra ngay lúc mới ra đời. Qua hơn 76 năm cầm quyền, Đảng cùng toàn dân tộc xây dựng nên một nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã và đang giữ một vị thế mới trên trường quốc tế mà bất cứ ai cũng thấy. Qua 35 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta càng trưởng thành toàn diện. Trước thềm Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016), dư luận quốc tế nhận định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là chính đảng duy nhất cầm quyền là một mô hình thành công đặc biệt và mô hình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển vì rất nhiều mô hình đã được thử nghiệm, nhưng chưa thấy mô hình nào thành công”.
Trọng trách cầm quyền của Đảng, vinh dự được cầm quyền của Đảng trước nhân dân là do lịch sử dân tộc giao phó và được nhân dân Việt Nam thừa nhận, ủy thác và tin theo, chứ tuyệt đối không phải “từ trên trời rơi xuống” hay sự sắp xếp chủ quan của bất cứ ai, sự ngộ nhận của bất cứ giai cấp, tầng lớp nào.
Nhân đây, cần được nói thêm về một số ý kiến lưỡng lự hoặc công kích về chuyện một đảng hay đa đảng và vấn đề dân chủ ở Việt Nam. Rằng, từ những năm 40 tới những năm 90 của thế kỷ 20, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, ở nước ta, còn có hai đảng là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời ngày 30-6-1944 và tự giải tán vào ngày 20-10-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời ngày 22-7-1946 và tự giải tán tròn 42 năm sau đó, ngày 22-7-1988) đều thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng dân tộc Việt Nam tranh đấu vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng CNXH. Nghĩa là, Việt Nam đã từng và có một thời kỳ lịch sử không ngắn, ngót nửa thế kỷ, sau khi dân tộc giành lại nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân được hưởng nền tự do, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng có nhiều đảng chính trị khác hoạt động và tự giải tán, chứ đâu phải câu chuyện hão về “đảng toàn trị”, “độc đảng” hoặc đâu cần ai khuyến nghị “muốn có dân chủ, phải đa đảng”(!).
Tới đây, lại nhớ và nhắc lại lời người xưa, rằng nếu như đem dục vọng, tạp niệm của mình lắng xuống, có đạo lý nào mà chúng ta không thể thông suốt? Rằng, nếu đem chí hướng của mình mạnh mẽ khơi dậy, có việc gì mà ta không thể làm? Mấy vị ngày nay ấy, danh chính gì mà luận chính danh hay chính pháp về Đảng, khi các vị chỉ biết ôm trong lòng sự kiêu ngạo vô lối mà quan sát sự tình, mang tinh thần uể oải sa sút, thậm chí đem con mắt hạt đậu mà định luận sự việc, chẳng qua cũng chỉ là hồ đồ sống hết cuộc đời mình. Chỉ thế mà thôi!
Có thể nói gọn lại, lịch sử dân tộc Việt Nam sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam, đến lượt mình, Đảng đáp lại yêu cầu của lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về quy mô, tốc độ, chiều sâu của công cuộc phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Đó là biện chứng phát triển tự nhiên và tất yếu của dân tộc Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhu cầu phát triển tất yếu của đất nước hiện nay, trên con đường độc lập dân tộc và CNXH, dưới ngọn cờ của Đảng. Đó là tính tất yếu cầm quyền của Đảng, tính chính danh, chính pháp, bảo đảm tư cách pháp lý và đạo lý để Đảng cầm quyền.
(còn nữa)