Bên mái Giăng Màn
Bên mái Giăng Màn, xã Dân Hóa hiện ra lặng lẽ trong sương sớm. Ở nơi ấy, một tiếng đàn Karong vang lên giữa gió rừng, một bữa cơm đặt trên lá chuối xanh, đủ để người ta chậm lại, lắng nghe và nhận ra rằng phía sau những điều tưởng như bình dị là cả một đời sống văn hóa đang bền bỉ chảy qua năm tháng.
1. Tôi đến Dân Hóa vào một buổi sáng rừng còn ngái ngủ. Con đường đất đỏ lặng lẽ men theo sườn núi, sương chưa tan hẳn, cứ quẩn quanh dưới tán cây già như không nỡ rời đi. Thỉnh thoảng, mưa lại lất phất rơi, khiến con đường đất đỏ nhão nhoẹt, bước chân như trĩu nặng. Ngôi nhà sàn của già Hồ Khăm, bản Pachoong nằm phía trên ngọn đồi, lặng lẽ giữa bạt ngàn lau lách. Ngôi nhà gỗ, lợp mái tranh ấy vẫn chẳng hề đổi thay từ dạo tôi đến thăm ông hơn 10 năm trước. Trong cái se sắt và hiu hắt của đất trời, một thanh âm vang lên, lọt qua ô cửa sổ màu xám. Già Hồ Khăm ngồi bên khung cửa nhỏ, đôi mắt ông lim dim như thả hồn vào điệu đàn réo rắt.
Già Hồ Khăm vẫn thế, chỉ là thời gian đã làm cho gương mặt của ông già nua hơn đôi chút. Nhưng trong ánh mắt màu nâu trầm, niềm đam mê vẫn chưa hề vơi cạn. Người đàn ông người Khùa ấy đã đi gần trọn đời mình cùng cây đàn Karong. Đó là thứ nhạc cụ được ông tự tay chế ra từ ống nứa dài chừng 3 gang tay, hai đầu mắt và giữa thân được khoét lỗ để tạo ra âm thanh. Ngay mỗi đầu ống có gắn hai thanh nứa để làm chỗ buộc và điều chỉnh dây đàn. Từ cây đàn mộc mạc ấy cất lên một thứ thanh âm lạ lẫm, nghe thô ráp nhưng đầy ma mị. Karong vừa có thể dùng vĩ kéo, vừa gẩy hoặc búng trên một đoạn nhạc dài có tiết tấu dồn dập.

Già Hồ Khăm với cây đàn Karong - Ảnh: D.H
Đó là thứ âm thanh sinh ra từ đời sống. Khi vui, già kéo đàn cho rừng nghe. Khi buồn, già kéo đàn cho chính mình. Có những đêm trăng sáng, tiếng Karong theo gió lan ra sân nhà sàn, hòa vào tiếng cười của trẻ con, vào câu hát đối đáp của trai gái trong bản. Âm thanh ấy đủ sâu để người ta đã ghi nhớ thì sẽ nhớ rất lâu. Như sáng nay, tôi đứng nghe già kéo đàn trong một buổi trời trở gió. Tiếng Karong chậm rãi, trầm xuống rồi lại nhích lên, như nhịp thở của núi. Có lúc, tôi không phân biệt được đâu là tiếng đàn, đâu là tiếng gió lùa qua đám lau ven suối. Mọi thứ hòa vào nhau, dịu dàng như một điệu ru cổ mà đại ngàn vẫn thì thầm với con người qua bao thế hệ.
Dưới chân dãy Giăng Màn, đồng bào Chứt, Bru-Vân Kiều xã Dân Hóa còn lưu giữ nhiều thanh âm đặc trưng khác: Tiếng sáo vút lên mỗi sớm, tiếng khèn gọi bạn tình trong những đêm hội, điệu hát ru con đều đều bên bếp lửa, điệu múa cộng đồng xoay vòng theo nhịp trống mừng mùa lúa mới. Mỗi âm thanh là một mảnh đời, một câu chuyện nhỏ, góp lại thành bản hòa âm nguyên sơ mà thiên nhiên giữ vai trò nhạc trưởng. Sau những trăn trở, lo âu, giờ già Hồ Khăm đã có thể vui hơn đôi chút khi mà lớp trẻ của bản đã hào hứng với cây đàn Karong. Nhiều người đã biết chế tác, biết chơi nhạc dù đôi khi vẫn sao nhãng bởi những âm thanh hiện đại tràn về bản.
Những thanh âm phía núi không chỉ là di sản văn hóa phi vật thể. Chúng là sợi dây mỏng manh nối con người với núi rừng, với chính mình. Và nếu sợi dây ấy đứt đoạn, không gian này sẽ im lặng theo một cách thật buồn.
2. Nếu âm nhạc là nơi gửi gắm linh hồn, thì ẩm thực ở Dân Hóa chính là mạch ký ức lặng lẽ chảy qua đời sống. Tôi vẫn nhớ cảm giác ngồi trước mâm cơm đặt trên lớp lá chuối xanh, mọi món ăn giản dị mà đầy đặn, như vừa bước ra từ khu rừng phía núi. Cơm nếp rẫy nấu lên dẻo thơm, hạt nếp nâu ánh, còn nguyên mùi nắng và gió. Măng rừng luộc, măng xào, cá suối hấp lên trộn cùng lá rừng, vị ngọt thanh, không cần thêm nhiều gia vị. Gà thính-món ăn đặc trưng của đồng bào nơi đây được nấu từ gạo thính rang lên, đâm nhuyễn, đưa vào nấu chung với thịt gà ướp sẵn. Món ăn ấy vừa có vị đậm đà, vừa béo ngậy, vừa đủ ấm để níu người ta ngồi lại lâu hơn bên bếp lửa.
Bữa cơm của đồng bào nơi đây là sự chắt lọc của đất và rừng. Đằng sau mỗi món ăn là một câu chuyện đẫm vị rừng. Bên mâm cơm nóng hổi, chúng tôi không còn là khách, cũng không còn khoảng cách nào giữa người lạ và người quen. Vị đồ ăn lan ra, rượu ấm dần trong cổ họng nhưng thứ đọng lại lâu hơn là cảm giác được đón nhận, được sẻ chia và được yêu thương.

Ẩm thực được người dân vùng cao Dân Hóa chăm chút - Ảnh: D.H
Tôi ngồi ăn cùng một gia đình người Chứt, nghe họ kể chuyện khe suối, chuyện nuôi con gà thả quanh nhà, chuyện lên rừng hái măng, đào củ. Những câu chuyện ấy cứ tự nhiên trôi theo nhịp bữa ăn, theo điệu cười giòn của thiếu nữ ngồi bên bếp lửa. Hóa ra, đằng sau một bữa ăn ấm bụng ngày trở gió còn là nơi để giữ lại ký ức, để nối người với người và để kể cho nhau nghe về một cách sống chậm rãi, bền bỉ giữa đại ngàn.
3. Rời bếp lửa, tôi bước ra hiên nhà sàn khi chiều đã chùng xuống bên dãy Giăng Màn. Sương bắt đầu tràn về từ phía rừng. Con đường đất đỏ ban sáng tôi đi qua giờ lặng im, chỉ còn lại dấu chân mờ và mùi đất ngai ngái. Ở nơi thượng nguồn, mọi chuyển động đều diễn ra chậm hơn, đủ để người ta kịp nhận ra cuộc sống nơi này bình yên, đáng sống biết bao. Buổi chiều hôm ấy, tôi theo chân một người trong bản ra bìa rừng Dộ-Tà Vờng. Bản làng ấy đẹp tựa tiên cảnh với những mái nhà sàn neo mình nơi đỉnh đồi. Con suối nhỏ len qua những tảng đá xám, nước trong đến mức có thể nhìn thấy từng viên sỏi dưới đáy. Người Mày của bản còn lưu giữ nhiều di sản quý giá như lễ cúng giang sơn, lễ buộc chỉ cổ tay, lễ cúng cơm mới, cùng điệu đàn, điệu hát đặc sắc, ẩm thực riêng có.
Giữa đại ngàn Trường Sơn, xã biên giới Dân Hóa đang giữ trong mình nhiều lớp tài nguyên quý giá: Văn hóa bản địa còn nguyên mạch, ẩm thực gắn chặt với rừng núi, thiên nhiên hoang sơ và một vị trí giao thông đặc biệt. Ở đó, con đường 12A nối miền xuôi với Cửa khẩu quốc tế Cha Lo, mở ra cánh cửa sang nước bạn Lào. Nhưng khác với nhiều nơi khác, những lợi thế ấy ở Dân Hóa chưa bị phô bày hay khai thác đến tận cùng. Chúng vẫn nằm yên, như cách người bản địa bao đời nay gìn giữ rừng và đợi chờ được “đánh thức” bởi phát triển du lịch.
Nhưng phát triển du lịch nơi vùng biên cương này phải khởi đi từ chính văn hóa bản địa, từ tiếng đàn, điệu hát, từ mâm cơm của đồng bào và các lễ hội, phong tục nuôi dưỡng đời sống tinh thần của cộng đồng. Phát triển du lịch không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn là câu chuyện giữ gìn căn cước. Làm sao để người dân vẫn là chủ nhân không gian sống của mình, chứ không trở thành “diễn viên” trong chính bản làng họ. Làm sao để lớp trẻ học cách đón khách nhưng không quên tiếng đàn, điệu múa, lối sống của cha ông. Du lịch, suy cho cùng, nếu được làm bằng sự tử tế, sẽ không làm phai nhạt văn hóa mà khiến cho giá trị ấy càng được vững bền hơn.
Chiều muộn, khi ánh nắng cuối ngày tắt dần sau dãy Giăng Màn, tôi đứng nhìn con đường 12A kéo dài về phía cửa khẩu. Những chuyến xe vẫn đều đặn xuôi ngược, mang theo hàng hóa, người qua lại. Rồi sẽ đến một ngày, Dân Hóa không chỉ là nơi người ta đi qua, mà là nơi người ta muốn dừng lại, ở lại. Dừng để nghe một tiếng đàn, ăn một bữa cơm nóng, ngủ một đêm giữa rừng, rồi thức giấc giữa bản làng mờ sương.
Nguồn Quảng Trị: https://baoquangtri.vn/van-hoa/202512/ben-mai-giang-man-1100465/










