Bệnh dại từ động vật lây sang người có nguy hiểm?
Bệnh dại do virus dại gây ra viêm não cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương từ động vật lây sang người và một số động vật có vú khác (chó, mèo, dơi, chuột, …). Khi bệnh dại đã lên cơn do virus dại gây ra thì rất khó để chữa khỏi.
1. Bệnh dại là gì?
Nội dung
1. Bệnh dại là gì?
2. Tình hình mắc bệnh dại
3. Đặc điểm của bệnh dại
4. Cách chẩn đoán bệnh dại
5. Nguyên tắc điều trị bệnh dại
Bệnh dại là một bệnh truyền nhiễm, do virus dại gây ra và có thể lây từ động vật có vú (chó, mèo, dơi, chuột, thỏ, gấu trúc, chồn, cáo, chó sói …) sang người thông qua nước bọt của động vật có mang virus dại dẫn đến nhiễm trùng não và thần kinh trung ương một cách nghiêm trọng. Bệnh dại khi đã lên cơn dại thì gần như không thể chữa được.
2. Tình hình mắc bệnh dại
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh dại phổ biến trên toàn thế giới. Mỗi năm có trên 10 triệu người bị súc vật dại hoặc nghi dại cắn phải đi tiêm dự phòng bằng vaccine dại hoặc điều trị bằng huyết thanh kháng dại, trong đó có khoảng 60.000 - 70.000 người bị chết do bệnh dại, phần lớn được báo cáo từ các nước thuộc vùng nhiệt đới, nơi có tới 3/4 dân số thế giới đang sinh sống.
Tại nước ta, bệnh dại có mặt ở hầu hết các tỉnh thành. Vào đầu thập niên 1990 mỗi năm có 350-500 bệnh nhân tử vong vì bệnh dại. Giai đoạn 1996-2007 nhờ tích cực tiến hành các biện pháp phòng chống bệnh dại cho nên số trường hợp tử vong đã giảm 75%. Tuy nhiên sau đó căn bệnh lại có chiều hướng gia tăng. Cụ thể trong thập niên 2010, mỗi năm Việt Nam có 70-110 người mắc bệnh và tử vong. Kể từ năm 1992 trung bình mỗi năm có khoảng 440.000 người phải đi tiêm phòng do động vật cắn. Chó là động vật chủ yếu truyền bệnh dại, chiếm 96-97%, tiếp đến là mèo 3-4% và cũng chưa ghi nhận trường hợp người mắc dại từ động vật khác. Hiện tại, bệnh dại ở nước ta đang có xu thế gia tăng do việc quản lý nuôi chó, mèo hoặc giết mổ cũng như các gia đình thực hiện chưa tốt việc tiêm chủng phòng ngừa bệnh dại cho chó mèo. Bên cạnh đó còn có sự chủ quan của người dân.
3. Đặc điểm của bệnh dại
Bệnh dại là bệnh nhiễm virus dại cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương từ động vật lây sang người bởi chất tiết, thông thường là nước bọt bị nhiễm virus dại. Hầu hết các trường hợp phơi nhiễm với bệnh dại đều qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại.
Đặc biệt cần lưu ý là chó con dù bị nhiễm virus dại nhưng vẫn sống bình thường và nước bọt của chúng vẫn chứa vô số virus dại nhưng không lên cơn dại do hệ thần kinh của chó con chưa phát triển đầy đủ, vì vậy một số người dân không biết nên vẫn chơi, thậm chí cho chúng liếm vào da nhất là khi có vết thương ở da. Đôi khi virus dại có thể bị nhiễm qua đường tiếp xúc như hít phải khí dung hoặc ghép tổ chức mới bị nhiễm virus dại mà không hề biết. Khi đã lên cơn dại do chó dại cắn, kể cả động vật và người đều dẫn đến tử vong.
Thời kỳ nung bệnh từ khi virus dại vào cơ thể đến khi phát ra triệu chứng đầu tiên (thời kỳ nung bệnh) tùy thuộc vào vị trí của virus dại xâm nhập vào cơ thể, nghĩa là chó cắn vào vùng càng gần thần kinh trung ương (đầu, mặt, cổ…) càng sớm phát bệnh. Bệnh dại có 2 thể bệnh, thể cuồng sảng và thể liệt.
Triệu chứng ở thể cuồng sảng có thể là sốt cao, đau đầu, cảm giác ngứa ran, châm chích hoặc bỏng rát bất thường ở vùng da bị tổn thương hoặc không giải thích được (dị cảm) tại vị trí bị cắn hoặc vết thương mà chó mang virus dại liếm vào. Vài ngày sau đó, khi virus tấn công đến hệ thần kinh trung ương, tình trạng viêm não và tủy sống bắt đầu xuất hiện và tiến triển cho nên người bệnh bắt đầu có thể xuất hiện một số biểu hiện như bồn chồn, lo lắng, sợ nước, sợ gió, bị ảo giác (nhìn hoặc nghe thấy mọi thứ), lú lẫn, hành vi hung hăng và xuất hiện. Đồng thời xuất hiện co thắt cơ bắp, cơ hô hấp (cơ thanh khí quản, cơ hoành, cơ liên sườn…) gây khó thở, nuốt khó, tăng tiết nhiều nước bọt, sủi bọt mép, đẫn đến tê liệt, ngưng tim ngưng thở và tử vong.
Trong khi đó, ở nhóm người mắc bệnh dại bị liệt chỉ chiếm khoảng 20% trường hợp bị bệnh dại. Người bệnh có dấu hiệu tê liệt cơ bắp, bắt đầu ở vị trí vết thương, cơ bắp tê liệt dần dần, bắt đầu từ nơi có vết cắn hoặc vết xước. Tình trạng hôn mê từ từ phát triển, và cuối cùng là tử vong. Thể liệt của bệnh dại thường dễ bị chẩn đoán nhầm với một số bệnh gây liệt khác nếu bỏ sót yếu tố dịch tễ (chó, mèo, dơi hoặc chuột … cắn).
4. Cách chẩn đoán bệnh dại
Chẩn đoán bệnh dại chủ yếu dựa vào lâm sàng (sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng…) và dịch tễ học (bệnh nhân có tiền sử bị động vật cắn, liếm vào da, niêm mạc, vết thương…) nhưng không được tiêm phòng vaccine phòng bệnh dại hoặc không được tiêm huyết thanh kháng dại do ngành y tế khuyến cáo hoặc người bệnh đang sinh sống ở khu vực vẫn có bệnh dại lưu hành.
Chẩn đoán xác định bệnh dại sẽ thực hiện ở cơ sở y tế có đủ điều kiện bằng xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang, kỹ thuật sinh học phân tử của các mảnh cắt da lấy từ dìa tóc ở gáy người bệnh nhân, máu, tổ chức não...
5. Nguyên tắc điều trị bệnh dại
Điều trị bệnh dại sau khi phơi nhiễm phải được thực hiện ngay sau khi bị động vật cắn, liếm nhằm ngăn virus xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương càng sớm càng tốt. Trước tiên tại chỗ vết thương bị chó cắn hay cào xước, cần rửa vết thương ngay lập tức bằng nước sạch cùng với các dung dịch có thể tiêu diệt virus dại như xà phòng, chất tẩy rửa, povidone iodine,… ít nhất 15 phút, rồi băng vết thương lại và nhanh chóng đưa đến cơ sở y tế đủ điều kiện như bệnh viện, Trung tâm y học dự phòng… Tại đây, người bệnh sẽ được điều trị vết thương, tiêm vaccine phòng dại, trường hợp đặc biệt (vết thương gần thần kinh trung ương hoặc biết chắn chắn là chó dại cắn…) sẽ được chỉ định tiêm huyết thanh chống bệnh dại (kháng thể chống virus dại). Nên lưu ý rằng, người bệnh đến bệnh viện càng sớm thì hiệu quả ngăn chặn sự khởi phát triệu chứng và tử vong của bệnh dại càng có hiệu quả cao.
Mời xem video nhiều người quan tâm: