BIDV và ADB công bố báo cáo 'Thị trường tài chính Việt Nam 2022 và triển vọng 2023'
Nhóm nghiên cứu gồm các chuyên gia BIDV và ADB nhận định, năm 2023, kinh tế Việt Nam dự báo tăng trưởng chậm lại (5,5-6%) với lạm phát có thể sẽ cao hơn năm 2022 (4-4,5%).
Ngày 20/4, tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) (chủ trì là Viện Đào tạo và Nghiên cứu) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đồng tổ chức hội thảo công bố Báo cáo “Thị trường tài chính Việt Nam 2022 và triển vọng 2023”. Sự kiện đánh dấu năm thứ hai liên tiếp ADB và BIDV đồng tổ chức hội thảo công bố báo cáo có chất lượng và chuyên sâu.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Tổng Giám đốc BIDV Trần Phương chia sẻ, tiếp nối thành công của năm 2022, năm nay BIDV tiếp tục phối hợp ADB đồng tổ chức hội thảo công bố Báo cáo “Thị trường tài chính Việt Nam 2022 và triển vọng 2023”.
“Theo như chúng tôi được biết, cho đến nay, đây là báo cáo duy nhất đánh giá toàn cảnh về thị trường tài chính Việt Nam, bao hàm đầy đủ các lĩnh vực ngân hàng-chứng khoán-bảo hiểm với sự cộng tác nghiên cứu của ADB.
Tiếp thu các ý kiến góp ý của các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, báo cáo năm nay tập trung đưa ra những nhận định về xu hướng của thị trường tài chính trong và ngoài nước năm 2022 và triển vọng năm 2023, đặc biệt là nhìn nhận, đánh giá thực trạng, xu hướng và tiềm năng phát triển tài chính xanh”, ông Trần Phương cho biết.
Hội thảo và báo cáo tập trung vào 3 nội dung chính: đưa ra các nhận định về thị trường tài chính Việt Nam 2022 và triển vọng 2023; đánh giá về thực trạng, cơ hội và thách thức trong phát triển tài chính xanh tại Việt Nam; đồng thời đưa ra một số kiến nghị chính sách đối với Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và một số bộ, ngành liên quan, tập trung vào 2 nhóm chính là ổn định, phát triển thị trường tài chính và phát triển tài chính xanh.
Dự báo tăng trưởng kinh tế chậm lại
Nêu tóm tắt nội dung báo cáo về thị trường tài chính Việt Nam 2022 và triển vọng 2023, Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu nhận định, thị trường tài chính Việt Nam vẫn trong giai đoạn phát triển, dễ chịu tác động bởi các yếu tố bên ngoài.
Năm 2022, hệ quả từ các gói kích thích kinh tế trước đó và xung đột tại Ukraina, lạm phát toàn cầu tăng nhanh, khiến ngân hàng trung ương các nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng nhanh lãi suất, khiến tỷ giá biến động, rủi ro tài chính-tiền tệ toàn cầu gia tăng. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Sang năm 2023, trước bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái nhẹ, tăng trưởng chậm lại với giá cả, lạm phát đã dịu đi, tỷ giá ổn định hơn và lãi suất chững lại, nhưng còn ở mức cao, thị trường tài chính, ngân hàng có nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhất là sau sự cố sụp đổ của một số ngân hàng Mỹ và Thụy Sĩ, dù đã được khoanh vùng xử lý.
Kinh tế Việt Nam dự báo tăng trưởng chậm lại (5,5-6%) với lạm phát có thể sẽ cao hơn năm 2022 (4-4,5%). Trong bối cảnh đó, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã và đang chủ động, linh hoạch, thích ứng, ưu tiên hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, hạ dần lãi suất nhưng không chủ quan với lạm phát.
Chính sách tài khóa mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm với việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công, tiếp tục một số chính sách giãn, hoãn, giảm thuế, phí nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, kích thích tăng trưởng.
“Các điều chỉnh chính sách như việc Chính phủ ban hành Nghị định 08/2023/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, Nghị quyết 33/2023/NQ-CP về phát triển thị trường bất động sản, Nghị định 10/2023/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số nghị định hướng dẫn Luật Đất đai, Đề án phát triển nhà ở xã hội… được kỳ vọng ổn định và lành mạnh hóa thị trường chứng khoán, bất động sản nhưng cần theo dõi sát sao và phản ứng chính sách kịp thời vì rủi ro tài chính-ngân hàng toàn cầu gia tăng cũng như những tồn tại trên thị trường tài chính, bất động sản cần thời gian để khắc phục.
Cùng với đó, hành vi người dùng đã thay đổi nhiều sau dịch Covid-19 với việc ưu tiên sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt hơn, quản lý đầu tư và chi tiêu chặt chẽ hơn. Các nhà quản lý cần có chính sách thúc đẩy hành vi không dùng tiền mặt của người tiêu dùng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý (kể cả cơ chế Sandbox) để phát triển tài chính số và Fintech”, nội dung báo cáo nêu rõ.
Việt Nam - điểm đến hấp dẫn cho nguồn vốn xanh quốc tế
Báo cáo cũng nêu các đánh giá về thực trạng, cơ hội, và thách thức trong phát triển tài chính xanh tại Việt Nam. Theo đó nhìn nhận, tài chính xanh đang là một xu hướng lớn trên toàn thế giới với sự tham gia vào cuộc của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ của các nước cũng như hệ thống tài chính của từng quốc gia, khu vực.
Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó khi đang thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và chứng kiến thị trường tài chính xanh phát triển nhanh hơn trong thời gian gần đây.
“Trong tương lai, Việt Nam hứa hẹn sẽ là điểm đến hấp dẫn cho nguồn vốn xanh quốc tế với môi trường pháp lý đang được hoàn thiện, các tổ chức tài chính và doanh nghiệp cũng đang nỗ lực để kinh doanh tuần hoàn, phát triển tài chính xanh nhiều hơn, hiệu quả hơn nhằm huy động nguồn lực đầu tư phát triển và hội nhập quốc tế về phát triển bền vững…”, các đại biểu tại hội thảo cũng bày tỏ đồng quan điểm với báo cáo.
Đến nay, các cơ chế, chính sách cho thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đang được dần hoàn thiện với từng loại công cụ như trái phiếu xanh-xã hội-bền vững (GSS), cổ phiếu xanh, thị trường carbon cũng như tín dụng xanh.
Môi trường pháp lý hiện nay đang tương đối mở với các sản phẩm tài chính xanh tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động nguồn vốn xanh trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, việc triển khai tín dụng xanh, trái phiếu xanh theo quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường 2020 vẫn đang chờ hướng dẫn chi tiết hơn.
Tại hội thảo, các diễn giả, chuyên gia và đại biểu cũng đã đưa ra một số kiến nghị chính sách đối với Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và một số bộ, ngành liên quan.
Một số kiến nghị nhằm ổn định và phát triển thị trường tài chính có thể kể đến, như: cần nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp chính sách tiền tệ và tài khóa; tiếp tục đẩy nhanh giải ngân Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và đầu tư công; thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tài chính, đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm hạn chế cạnh tranh không lành mạnh, tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất; tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính tăng vốn chủ sở hữu, đáp ứng nhu cầu cung ứng và phân bổ vốn cho nền kinh tế, bảo đảm an toàn; tăng năng lực quản trị, tài chính, chuyển đổi số, quản lý rủi ro; quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống, nhất là rủi ro liên thông giữa tài chính và bất động sản…