Biến động lớn trên thế giới và thách thức, rủi ro với ngành thép Việt
Ngành thép Việt Nam đang đứng trước những biến động lớn từ thị trường quốc tế, nổi bật là quyết định gần đây của Trung Quốc về việc cắt giảm sản lượng thép thô và xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ từ các nước lớn. Những thay đổi này vừa mở ra cơ hội, vừa đặt ra rủi ro cho ngành thép trong nước.
Trung Quốc đề xuất cắt giảm sản xuất thép
Trung Quốc, với xuất khẩu thép đạt 110 triệu tấn trong năm 2024 – mức cao nhất 9 năm qua, lần đầu tiên đưa ra đề xuất giảm sản xuất thông qua Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia. Dù chưa công bố con số cụ thể, động thái này được kỳ vọng không chỉ hỗ trợ các nhà sản xuất thép nội địa Trung Quốc mà còn mang lại lợi ích cho thị trường toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Trước hết, nếu sản lượng thép Trung Quốc giảm, áp lực từ thép giá rẻ tràn vào Việt Nam sẽ giảm, giúp thị trường nội địa có thêm không gian để phát triển.
Hơn nữa, chính sách tái cấu trúc của Trung Quốc có thể tập trung vào thép chất lượng cao, mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có năng lực tương tự cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt ở những dự án cơ sở hạ tầng lớn đòi hỏi thép cao cấp. Quan trọng hơn, khi Trung Quốc rút bớt nguồn cung, khoảng trống tại các thị trường xuất khẩu sẽ là cơ hội để Việt Nam mở rộng thị phần sang châu Á, châu Âu và Mỹ, cải thiện cán cân thương mại ngành thép.

Ngành thép Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức cũng như cơ hội trong bối cảnh thị trường thép thế giới nhiều biến động
Bên cạnh những thuận lợi, ngành thép Việt Nam cũng phải đối diện với những khó khăn tiềm ẩn. Cụ thể là việc giảm nhu cầu quặng sắt và ảnh hưởng đến nguyên liệu sản xuất. Một trong những rủi ro lớn từ động thái này của Trung Quốc là sự giảm sút trong nhu cầu quặng sắt, nguyên liệu quan trọng để sản xuất thép. Theo các dự báo, nếu sản lượng thép của thị trường Trung Quốc giảm khoảng 50 triệu tấn, nhu cầu quặng sắt toàn cầu có thể giảm khoảng 1%. Điều này có thể ảnh hưởng đến ngành khai thác quặng sắt của Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu quặng sắt lớn. Việc giá quặng sắt giảm cũng có thể làm ảnh hưởng đến doanh thu của các công ty khai thác và sản xuất thép trong nước.
Thêm nhiều thách thức từ thay đổi chính sách của các nước lớn
Ông Đinh Quốc Thái, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) nhận định, năm 2025, ngành thép trong nước tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức: sự gia tăng tính bất ổn của thị trường thế giới, đứt gãy chuỗi cung ứng, giá cước vận tải quốc tế… Ngoài ra, các yếu tố biến động đến giá nguyên liệu và nhiên vật liệu… chắc chắn sẽ làm tăng chi phí không nhỏ cho sản xuất thép.
Ông Đinh Quốc Thái cũng nhấn mạnh một tình trạng hiện nay đó là sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn, đặc biệt là sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ trong thị trường toàn cầu, chủ yếu là do dư thừa công suất (theo OECD dư thừa công suất thép toàn cầu hiện ở mức 559 triệu tấn). Hiện các nước đều gia tăng các hàng rào kỹ thuật, tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại, lạm dụng chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh… làm công cụ và hàng rào ngăn cản thép nhập khẩu để bảo hộ sản xuất thép trong nước và vùng lãnh thổ. Điều này sẽ là lực cản không nhỏ đối với việc xuất khẩu thép Việt Nam trong thời gian tới.
Chẳng hạn, tuyên bố ngày 10 và 11/2/2025 của Tổng thống Donald Trump nhằm mở rộng phạm vi áp thuế theo điều 232 Đạo luật thương mại mở rộng của Mỹ năm 1962 mà ông Trump đã áp đặt vào năm 2018 (trong đó có thép Việt Nam) nhằm bảo vệ các nhà sản xuất thép và nhôm trong nước với lý do an ninh quốc gia. Đồng thời, mở rộng đối với các sản phẩm hạ nguồn sử dụng thép nước ngoài, bao gồm thép kết cấu chế tạo và dây cáp thép dùng cho bê tông dự ứng lực.
Trong ngắn hạn, các dự báo cho rằng thép Việt Nam vẫn có cơ hội tiếp tục xuất khẩu vào Mỹ, do năng lực sản xuất của các nhà sản xuất thép của Mỹ chưa thể đáp ứng ngay nhu cầu trong nước và sản phẩm thép Việt Nam sẽ có lợi thế so với các sản phẩm thép của các nước bị áp thuế 25% lần này. Tuy nhiên, lợi thế này sẽ nhanh chóng mất đi vì các quyết định điều tra về phòng vệ thương mại do xu thế bảo hộ ngày càng gia tăng tại thị trường Mỹ.
Về trung và dài hạn, khi các nền kinh tế lớn với công nghệ sản xuất thép hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Canada… bị áp thuế thép 25% sẽ tác động lớn đến dòng chảy thương mại thép toàn cầu. Nguyên nhân do sản phẩm thép của các nền kinh tế này gặp khó tại thị trường Mỹ, sẽ tìm đường xuất khẩu sang các nước khác, trong đó có Việt Nam hoặc quay trở lại thị trường nội địa. “Điều này sẽ khiến thép Việt Nam gặp khó khăn không những tại Mỹ, mà còn gặp khó tại gần 30 thị trường truyền thống hiện nay (ngoài Mỹ)”, ông Thái nhận định.
Không chỉ ở Mỹ, Liên minh châu Âu đã có Quyết định số 2024/1157 ngày 11/4/2024 về việc vận chuyển phế liệu không nguy hại liên quan đến các quốc gia không thuộc khối OECD mong muốn nhập khẩu các loại phế liệu không nguy hại như: giấy, nhôm, sắt thép, nhựa… từ Liên minh châu Âu về làm nguyên liệu sản xuất.
Ủy ban châu Âu (EC) được trao quyền ban hành một danh sách các quốc gia được phép nhập khẩu phế liệu thu hồi từ Liên minh châu Âu nhằm mục đích tái chế. Mặc dù quyết định này vì mục tiêu khí hậu, nhưng cũng tạo ra sự lo ngại của doanh nghiệp về một EU đang ngày càng tạo ra các thủ tục rườm rà mà có thể là rào cản cho hoạt động của ngành thép Việt Nam (CBAM, Quota nhập khẩu thép, cho phép nhập khẩu phế liệu thu hồi làm nguyên liệu sản xuất từ EU...).
Cơ hội và rủi ro cho doanh nghiệp thép Việt
Để ứng phó có hiệu quả đối với sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn trong bối cảnh quốc tế hiện nay, bên cạnh các chính sách về ngoại giao, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) đề xuất cơ quan quản lý nhà nước, nhất là các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục nắm bắt, cập nhật thông tin, cảnh báo sớm cho doanh nghiệp và hiệp hội, giúp các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam chủ động có kế hoạch ứng phó từ xa, từ sớm nhằm tìm ra các cơ hội và hạn chế các rủi ro đối với sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn.
Cụ thể là các quyết định tiếp theo của Chính quyền Mỹ liên quan đến đối tượng và thời gian áp thuế, thời hạn hoãn áp thuế cho từng đối tượng theo Điều khoản 232 Đạo luật thương mại mở rộng của Mỹ năm 1962. Đồng thời đàm phán, cập nhật nội dung EU áp thuế carbon đối với từng sản phẩm thép theo cơ chế CBAM và theo dõi thủ tục EC đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia được nhập khẩu phế liệu từ EU cảnh báo sớm cho các bên để bổ sung thủ tục (nếu cần).
Đối với trong nước, các cơ quan Chính phủ cần đẩy mạnh và nâng cao năng lực bảo vệ sản xuất trong nước, theo hướng chặt chẽ đầu vào, bao gồm: nâng cao năng lực xây dựng và áp dụng hàng rào kỹ thuật, thủ tục nhập khẩu đảm bảo yêu cầu của hàng rào kỹ thuật theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại cho doanh nghiệp, trước mắt để giải quyết hiện trạng thép Trung Quốc đang cạnh tranh không công bằng tại thị trường Việt Nam, về trung và dài hạn là phòng ngừa thép của các nền kinh tế lớn cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường Việt Nam.
Mặt khác, đảm bảo thông thoáng đầu ra cho các sản phẩm trong nước đã sản xuất được, từ khâu tìm hiểu thị trường, giới thiệu sản phẩm thép sản xuất tại Việt Nam; xúc tiến thương mại thúc đẩy xuất khẩu thép đến các thị trường mới; tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục xuất khẩu. Cảnh báo sớm và nâng cao năng lực ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra (đàm phán, trao đổi, trình bày lập luận, quan điểm của Việt Nam về kết luận của cơ quan điều tra, hỗ trợ tham vấn trong các phiên tham vấn công khai tại nước khởi kiện...) nhằm tạo lợi thế cạnh tranh của thép Việt Nam tại các thị trường truyền thống, khơi thông dòng chảy thép Việt Nam ra thị trường toàn cầu.
Đồng tình với các giải pháp của VSA, ông Đỗ Ngọc Hưng, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Mỹ bổ sung thêm, việc các đối tác thương mại bị Mỹ áp thuế có thể tạo ra cơ hội để Việt Nam tăng cường xuất khẩu, tuy nhiên, điều này cũng đặt ra nhiều thách thức cần được theo dõi chặt chẽ.
Theo đó, Việt Nam cần theo dõi sát sao các diễn biến thương mại và chính sách thuế quan của Mỹ để có sự điều chỉnh kịp thời. Đồng thời, các doanh nghiệp cần tăng cường phối hợp và trao đổi với các cơ quan thuộc Bộ Công Thương cũng như Thương vụ Việt Nam tại Mỹ nhằm cập nhật thông tin và tìm kiếm giải pháp ứng phó phù hợp.