Biến rác hữu cơ thành tài nguyên - hướng tới một Huế xanh

HNN - Trước áp lực ngày càng tăng của ô nhiễm môi trường đô thị và chi phí xử lý rác thải, Huế có thể trở thành một hình mẫu về quản lý chất thải bền vững nếu chúng ta cùng chung tay hành động, bắt đầu từ việc tái sinh nguồn rác hữu cơ đang chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lượng rác sinh hoạt của thành phố.

Dọn rác trên sông Hương sau ngày lũ về. Ảnh: Trương Vững

Dọn rác trên sông Hương sau ngày lũ về. Ảnh: Trương Vững

Trong 10 tháng đầu năm 2025, thành phố Huế đã phát sinh gần 200.000 tấn rác thải sinh hoạt, trong đó có tới 79% là rác nhà bếp - loại rác ẩm, nặng và chi phí xử lý rất cao, nhất là khi đa phần đang được đưa vào lò đốt. Trong bối cảnh ngân sách phải chi trả ngày càng lớn cho việc xử lý đốt rác thì làm thế nào để tìm ra cách biến rác hữu cơ thành tài nguyên tái sinh trở nên cần thiết.

Từ kinh nghiệm Nhật Bản và các mô hình thành công trên thế giới

Nhắc đến xử lý rác hữu cơ, Nhật Bản là quốc gia có nhiều mô hình hiệu quả, phù hợp với cả hộ dân và quy mô cộng đồng. Điển hình là phương pháp Takakura, dựa trên vi sinh tự nhiên từ thực phẩm lên men và mùn lá, giúp ủ rác nhanh, ít mùi, vật liệu dễ kiếm. Hay phương pháp Bokashi - sử dụng cám trộn EM (Effective Microorganisms) để lên men rác nhà bếp trong môi trường yếm khí - rất phù hợp với các hộ gia đình sống ở nhà phố hoặc chung cư.

Ở quy mô lớn hơn, Nhật Bản áp dụng công nghệ ủ đống tĩnh có cấp khí (ASP - Air Systems Pressure) và ủ trong thiết bị kín (In-vessel) cho rác thực phẩm từ chợ hoặc nhà hàng. Các công nghệ này kiểm soát tốt nhiệt độ và mùi, tạo ra phân hữu cơ ổn định, đáp ứng tiêu chuẩn nông nghiệp đô thị.

Trên thế giới, nhiều mô hình khác cũng đáng để học hỏi: Ủ đống dài (windrow) có chi phí thấp; ủ giun (vermicomposting) tạo phân chất lượng cao; MBT (Mechanical-Biological Treatment) - xử lý cơ sinh học phù hợp nơi rác chưa phân loại; hay xử lý kỵ khí (AD - Anaerobic Digestion) tạo ra biogas và phân bón. Dù cách làm khác nhau, song điểm chung của các thành phố thành công là họ đều phân loại rác tại nguồn.

Điều quan trọng là Huế từng có kinh nghiệm từ Dự án Tăng cường năng lực quản lý tổng hợp chất thải rắn đô thị Việt Nam do JICA tài trợ. Trong giai đoạn trước đây, dự án ưu tiên “Thúc đẩy sản xuất phân hữu cơ dựa vào cộng đồng” đã được triển khai tại tổ dân phố Xuân Đài (phường Hương Xuân, thị xã Hương Trà cũ) và thôn Tân Xuân Lai (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền cũ). Tuy nhiên, vì nhiều lý do, mô hình này hiện không còn duy trì. Đây là bài học quan trọng để Huế xây dựng các chương trình phân trộn (compost) mới, bền vững và phù hợp hơn với nhu cầu hiện nay.

Những giải pháp dành cho Huế

Để Huế có thể biến hơn 150.000 tấn rác hữu cơ mỗi năm thành tài nguyên, cần bắt đầu từ tầm nhìn quản lý rác dựa trên phân loại tại nguồn. Trước hết, ở cấp hộ gia đình và tổ dân phố, phương pháp Takakura và Bokashi là phù hợp nhất. Nếu mỗi hộ xử lý được 30 - 40% rác nhà bếp ngay tại chỗ, Huế có thể giảm từ 200 đến 250 tấn rác mỗi ngày - tương đương hàng chục chuyến xe vận chuyển và chi phí đốt rác tương ứng.

 Thành phần chất thải tại thành phố Huế (Nguồn: Masahiro Oosako và các tác giả: Xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn và đánh giá hệ thống quản lý chất thải rắn tại các nước Đông Nam Á, tháng 3/2012)

Thành phần chất thải tại thành phố Huế (Nguồn: Masahiro Oosako và các tác giả: Xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn và đánh giá hệ thống quản lý chất thải rắn tại các nước Đông Nam Á, tháng 3/2012)

Ở cấp chợ, trường học, bếp ăn và các cơ sở du lịch, mô hình windrow có mái che hoặc ASP sẽ giúp xử lý lượng rác hữu cơ lớn, ít tạp chất, tạo ra phân bón phục vụ cây xanh đô thị và các vùng nông nghiệp ven thành phố. Ở cấp thành phố, khi phân loại rác được duy trì ổn định, có thể kết hợp thêm công nghệ MBT hoặc AD để tối ưu hóa xử lý rác hỗn hợp và tạo ra nguồn năng lượng sinh học.

Lợi ích kinh tế

Hiện nay, đốt rác là phương thức xử lý tốn kém nhất, đặc biệt với rác nhà bếp có độ ẩm cao, khiến nhiên liệu tiêu hao lớn và chi phí vận hành tăng mạnh. Với hơn 200.000 tấn rác mỗi năm, ngân sách thành phố phải chịu áp lực lớn cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý bằng đốt.

Nếu chỉ cần một phần rác hữu cơ được xử lý bằng compost, Huế có thể giảm đáng kể chi phí đốt rác mỗi năm. Đồng thời, compost tạo ra sẽ thay thế một phần phân hóa học cho công viên, mảng xanh và nông nghiệp. Về lâu dài, kinh tế tuần hoàn từ compost có thể mở ra các ngành nghề như sản xuất phân hữu cơ thương phẩm, chế phẩm vi sinh, nông nghiệp hữu cơ - tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng.

Cộng đồng và chính quyền cùng hành động

Hành trình này không thể thành công nếu thiếu sự chung tay của mỗi người dân. Chỉ cần phân loại rác ngay trong bếp, trước mắt là phân loại rác hữu cơ và ủ tại chỗ, mỗi hộ đang góp phần giải quyết một vấn đề lớn của thành phố. Với các đoàn thể, trường học, khu dân cư, việc tổ chức mô hình compost cộng đồng, truyền thông thay đổi hành vi và khuyến khích sử dụng phân hữu cơ là yếu tố không thể thiếu.

Điều quan trọng là cần có lộ trình phân loại rác tại nguồn phù hợp, hỗ trợ cộng đồng dùng chế phẩm compost và chuẩn hóa mô hình ủ rác để đảm bảo không gây mùi, không phát sinh ruồi muỗi. Sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền và người dân sẽ tạo ra một nền tảng vững chắc cho kinh tế tuần hoàn rác thải.

Với những bước đi phù hợp, Huế không chỉ là thành phố di sản, mà còn trở thành một đô thị sinh thái hiện đại - nơi rác hữu cơ được tái sinh thành nguồn sống mới cho đất đai, cộng đồng và tương lai xanh.

Nguyễn Đại Viên

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/kinh-te/bien-rac-huu-co-thanh-tai-nguyen-huong-toi-mot-hue-xanh-160274.html