Biểu tượng sáng ngời về nhân cách, tài năng, trí tuệ Việt Nam

Đồng chí Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7-4-1907, trong một gia đình lao động có truyền thống yêu nước tại làng Bích La Đông, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Đồng chí Lê Duẩn tham gia phong trào yêu nước từ năm 1925 và đến năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tổng Bí thư Lê Duẩn nói chuyện với cán bộ, công nhân Nông trường Tây Hiếu, tỉnh Nghệ Tĩnh, ngày 22/4/1979.

Tổng Bí thư Lê Duẩn nói chuyện với cán bộ, công nhân Nông trường Tây Hiếu, tỉnh Nghệ Tĩnh, ngày 22/4/1979.

Quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Duẩn diễn ra liên tục trên phạm vi cả nước với nhiều trọng trách được Đảng và nhân dân tin cậy, giao phó như: Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ (năm 1931); Bí thư Xứ ủy lâm thời Trung Kỳ (năm 1937); Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng (năm 1939); Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1946 - 1951, 1954 - 1957), Bí thư Trung Cục miền Nam (1951 - 1954), Bí thư thứ nhất, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1960 -1986). Với 79 tuổi đời, 56 tuổi Đảng, gần 60 năm hoạt động cách mạng, cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Lê Duẩn là biểu tượng sáng ngời về nhân cách, tài năng, trí tuệ Việt Nam:

Lòng yêu nước nồng nàn, tình cảm trung thành vô hạn với Tổ quốc và nhân dân Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến cuộc sống lầm than, cơ cực của người dân dưới sự thống trị của thực dân Pháp và tay sai, người thanh niên Lê Văn Nhuận sớm nung nấu hoài bão đánh giặc, cứu nước.

Năm 1925, trong thời gian học dự thính tại trường Quốc học Huế, Lê Văn Nhuận đã hòa mình vào không khí đấu tranh sôi nổi của nhân dân đòi giảm án tử hình cho nhà yêu nước Phan Bội Châu.

Năm 1926, Lê Văn Nhuận làm nhân viên Hỏa xa Đà Nẵng. Thời gian này, vừa làm việc, anh vừa tiếp xúc và giác ngộ tinh thần yêu nước cho nhiều thanh niên, trí thức. Năm 1928, Lê Văn Nhuận rời Đà Nẵng ra Hà Nội làm nhân viên thư ký Đềpô thuộc Sở Hỏa xã Đông Dương. Cuối năm 1928, anh chính thức gia nhập tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1929, Lê Văn Nhuận gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, được phân công công tác vận động, tuyên truyền anh em công nhân ngành đường sắt. Vừa hoạt động, vừa học tập, từng bước anh tự bồi đắp cho mình những tri thức mới, nâng cao thêm tinh thần yêu nước và cách mạng. Anh đã gây dựng nhiều cơ sở và phát động đấu tranh trong giới thợ thuyền, thanh niên, bà con lao động, hòa mình vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Hà Nội.

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí Lê Văn Nhuận được tiếp nhận về sinh hoạt Đảng tại Thành ủy Hà Nội. Trên mỗi cương vị công tác, cho đến sau này giữ trọng trách Bí thư thứ nhất, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1960 - 1986); trong mỗi thời kỳ lịch sử, dù là trong chiến tranh cách mạng hay trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn là một biểu tượng sáng ngời về lòng yêu nước, trung thành vô hạn với Tổ quốc và nhân dân.

Tinh thần cách mạng kiên trung, bất khuất

Với đồng chí Lê Duẩn, sự tàn bạo của kẻ thù không làm đồng chí khuất phục, trái lại, càng tôi luyện thêm ý chí, rèn đúc thêm bản lĩnh, trí tuệ và phẩm chất của người chiến sỹ cách mạng.

Năm 1931, thực dân Pháp bắt giam và kết án đồng chí 20 năm tù cầm cố, lưu đày đến các nhà tù Sơn La, Côn Đảo. Vượt lên mọi cực hình, đồng chí luôn bền gan, quyết chí giữ vững ý chí, lập trường và niềm tin cách mạng; cùng với đồng chí, đồng đội nêu cao khí phách trung dũng, kiên cường đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù, giữ trọn khí tiết của người Cộng sản chân chính.

Đồng chí bị địch bắt và đày đồng chí ra nhà tù Côn Đảo. Năm 1936, sau khi được trả tự do, đồng chí đã vượt qua sự truy lùng ráo riết của địch, lăn lộn, chỉ đạo phong trào đấu tranh, gây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng; kịp thời chỉ đạo phong trào dân chủ phát triển mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu. Bất chấp sự đe dọa, quản thúc của kẻ thù, mặc dù sức khỏe bị giảm sút sau những năm tháng bị tù đày, đồng chí vẫn miệt mài lăn lộn khắp các tỉnh Trung Kỳ để gây dựng cơ sở cách mạng.

Trong những năm tháng đồng cam cộng khổ cùng với nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược, đây là thời kỳ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, lực lượng kháng chiến mỏng, lại ở tình trạng phân tán. Mặc dù phải đối mặt với nhiều hiểm nguy, gian khổ nhưng đồng chí vẫn vững vàng, kiên định, vượt qua tất cả, sáng suốt đề ra và chỉ đạo thực hiện một loạt các chủ trương quan trọng. Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phẩm chất kiên trung, bất khuất của đồng chí được biểu hiện rõ nét nhất ở tư tưởng cách mạng tiến công, bản lĩnh, ý chí sắt đá, quyết tâm cao nhất “dám đánh Mỹ và thắng Mỹ”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày đất nước thống nhất, với bản lĩnh, ý chí và sự kiên cường của nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí đã có những quyết sách sáng suốt để cùng với Đảng lãnh đạo đất nước vượt lên những thời điểm khó khăn nhất, vững bước đi lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhà lý luận sáng tạo của Đảng

Gần 60 năm hoạt động cách mạng cũng là chừng ấy thời gian đồng chí Lê Duẩn nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; say mê tìm tòi, trăn trở để trả lời cho được những vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra trên tinh thần tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo - luận điểm nổi tiếng của Lê nin luôn được đồng chí Lê Duẩn thể hiện xuất sắc luận trong tư duy
và hoạt động thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tư duy lý luận của đồng chí được cụ thể hóa vào những quyết định có tính bước ngoặt của Đảng đối với cách mạng miền Nam; trong tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cuộc kháng chiến. Đó là dám đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ. Đó là quan điểm sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, với hai hình thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. Là tư tưởng đánh địch và thắng địch bằng sức mạnh tổng hợp. Tư tưởng đánh địch trên ba mặt trận (quân sự, chính trị, ngoại giao); trên ba vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, đô thị); bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận)...

Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí Lê Duẩn luôn suy nghĩ, trăn trở, tìm tòi con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của Việt Nam, với lịch sử - văn hóa, kinh tế - xã hội và con người Việt Nam. Những ngày cuối đời, đồng chí Lê Duẩn vẫn nung nấu, trăn trở suy nghĩ về những vấn đề quan trọng để hoàn chỉnh quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Rất tiếc, do sức khỏe giảm sút nhanh chóng, đồng chí không kịp đưa ra lời giải cho hàng loạt vấn đề mà đồng chí đã đặt ra và dày công suy nghĩ.

Yêu lao động, trọng lẽ phải và giàu tình thương

Với đồng chí Lê Duẩn yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải, đó là phẩm chất cơ bản cần được bồi dưỡng và hoàn thiện để con người có thể làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, tiếp cận và chiếm lĩnh được “cái Đúng, cái Tốt, cái Đẹp” của cuộc sống.

Từ những ngày đầu rời mảnh đất quê hương đi làm cách mạng, hành trang mà đồng chí mang theo là lý tưởng của người thanh niên yêu nước, thương nòi; đồng chí đã tự nuôi sống bản thân để thực hiện hoài bão cứu nước bằng lao động chân chính. Sau này, trên con đường hoạt động cách mạng, đồng chí là một tấm gương về lao động và không ngừng lao động sáng tạo. Trong những năm tháng chịu cảnh tù đày dưới hệ thống nhà tù đế quốc, đồng chí đã vượt qua sự tra tấn, khủng bố khốc liệt của kẻ thù, “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, tự học, rèn luyện để trở thành một người cộng sản có trí tuệ lớn, tài năng lớn. Trong thời gian hoạt động ở Nam Bộ, đồng chí là một “ngọn đèn hai trăm nến”, luôn “cháy hết công suất” để lãnh đạo cách mạng miền Nam. Đặc biệt, với khả năng lao động, sáng tạo phi thường, đồng chí đã dự thảo “Đề cương cách mạng miền Nam” là bước khởi đầu để hình thành Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 lịch sử - Nghị quyết tạo ra bước ngoặt quan trọng của cách mạng miền Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, với cương vị là lãnh đạo chủ chốt của Đảng, đồng chí đã làm việc không ngừng để cùng với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại, lãnh đạo nhân dân làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày giải phóng, đất nước phải đối mặt với vô vàn những khó khăn, thử thách, đồng chí lao động cho đến hơi thở cuối cùng để lãnh đạo đất nước vững bước đi lên.

Tổng Bí thư Lê Duẩn - nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và cách mạng Việt Nam, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - người con vinh quang của đất nước. Bằng nhân cách, tài năng và trí tuệ của mình, đồng chí Lê Duẩn đã góp phần nâng tầm vị thế của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Năm tháng sẽ đi qua nhưng những cống hiến của đồng chí Lê Duẩn luôn sống mãi trong lòng dân tộc và mỗi một người con Việt Nam yêu nước. Nhân cách, tài năng và trí tuệ của đồng chí mãi tỏa sáng, nhắc nhở cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau phải không ngừng nỗ lực, phấn đấu, vươn lên xây dựng đất nước, quê hương ngày càng giàu mạnh, xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh đi trước.

Mai Linh
(Theo các tài liệu lịch sử)

Nguồn Tuyên Quang: http://www.baotuyenquang.com.vn/chinh-tri/trong-tinh/bieu-tuong-sang-ngoi-ve-nhan-cach-tai-nang-tri-tue-viet-nam-156591.html